THẦY LAN TRONG KÝ ỨC HỌC TRÒ
Cao
Thoại Châu
Không hiểu sao trong suốt thời học trò tôi lại không
được học với cô giáo, vì thế mà sau này tôi không có cái tính mềm mỏng uyển chuyển,
vốn là của phái nữ? Nhưng bù lại, trong những ông Thầy của tôi có đến ba vị là
nhà văn mà tôi ngưỡng mộ cả về văn tài lẫn tri thức và phong cách giảng dạy, đó
là các nhà văn Doãn Quốc Sĩ với.mái tóc bồng bềnh một cách tự nhiên và “Dòng
sông định mệnh” mà theo tôi là tiểu thuyết “tân lãng mạn” ấn tương nhất đối với
“tạng” của tôi ; là nhà văn Vũ Khắc Khoan, người không bao giờ cười, ăn mặc rất
lịch sự có phần hơi đỏm dáng và...hút thuốc Cotab không cần hộp quẹt. Và đó là
nhà thơ Nguyên Sa, người để lại cho tôi không nhiều nhưng là những ảnh hưởng
sâu đậm.
50 năm chẵn chòi nhưng tôi vẫn không quên ông
thầy dạy triết không đầu bù tóc rối, không “gàn gàn”, trái lại Thầy rất thoáng vui
vẻ hoạt bát một cách chừng mực và nhất là giảng bài nghe như lọt vào xương. Là
giáo sư, tác giả những bài thơ lãng mạn một cách hiện đại nóng hổi trên báo có
sức chinh phục, Thầy làm cho giờ học trở nên lôi cuốn hết sức. Riêng với tôi,
kẻ trốn học thường xuyên liên tục chỉ vì toán-dốt, lý hoá-kém, vạn vật-lười, thì
giờ triết là giờ duy nhất tôi có mặt. Trường Chu Văn An của tôi thời ấy rất
“hách” ở chỗ, thầy nổi tiếng , trò học giỏi và nghịch hơn mọi trường khác, cũng
là do “chấp nhận” cá tính ấy mà trường “kệ” cho tôi trốn học? Nhưng Thầy Lan
thì bảo “Khi đi thi đừng nộp học bạ (vì tôi trốn luôn cả thi lục cá nguyệt) họ
không vớt cho đâu, ráng sao cho đủ điểm”. Và tôi không rớt tú tài, may làm sao,
khi vào vấn đáp trúng ngay thầy. Thay vì truy bài ngay, Thầy cười rất tươi hỏi
“Có bài nào hay không ?”- nhà thơ nói trước, giáo sư Lan truy bài sau và cho
tôi có 14 điểm, một điểm không cao! Không thiên vị chút nào. Từ mối quan hệ
thầy trò ban đầu cho đến quan hệ sau này, Thầy luôn gọi tôi một cách trống
không như vậy và lúc nào đôi mắt nhà thơ nhí nhảnh cũng thay cho cặp mắt
thường là nghiêm của những người thầy. Xong tú tài tôi không gặp Thầy trong
nhiều năm, làm thơ tôi thường gửi bưu điện tới các báo và từ năm 1963 tôi có
bút danh mới như ngày nay và điều đó cũng dễ “nguỵ trang” cho nên đến ngay một
người bạn cũ làm Tổng thư ký tờ Nghệ Thuật là nhà thơ Viên Linh, mãi về sau khi
báo nhắn tôi đến hình như lãnh tí nhuận bút ngoại lệ mới nhận ra nhau. Lúc tôi
ra trường, trong nhiều kỳ chấm thi Thấy trò gặp nhau, sự thân tình vẫn chưa có,
khác với những nhà thơ cùng tuổi gọi Thấy là anh, tôi vẫn xưng hô với Thấy như
cũ, không phải quá câu nệ mà vì quen miệng và giữa chúng tôi không có những
sinh hoạt văn nghệ, không gặp nhau tại các tòa báo bao giờ.
Cho đến một ngày, chúng tôi có dịp gặp nhau
hàng ngày. Đó là vào năm 1966 khi cả Thầy lẫn trò đều vào Thủ Đức đội nón sắt
đi giày saut, ăn ngủ theo tiếng còi và đổ mồ hôi trong những bài tập quá sức
chuẩn bị để bị lao vào chỗ giết chóc. Gặp nhau, Thầy trò thân hơn, cà phê câu
lạc bộ vào những lúc có thể. Lúc ấy tôi mới nhận ra Thầy nhiều hơn: Chấp nhận
bất đắc dĩ một trò chơi miễn cưỡng nhưng Thầy khó tính hơn nhiều người cùng vào
quân trường tưởng, họ nghĩ khi đã mỗi người một khẩu súng thì...bình đẳng luôn về
những thứ còn lại! Tôi nhận ra nhưng không nói với thấy điều này, là người tinh
tế, ông giả lơ như tôi không nhận ra gì. Đó là một cái hay thuộc bản lĩnh của
ông, cho nên những giây phút rảnh rang bên ly cà phê lính, Thầy trò tôi không
có những than thở như người khác, những lúc như vậy Thầy cũng không nói gì về
thơ mà chỉ làm như vô tình “mớm” cho tôi cách xử lý ngôn ngữ, hình ảnh trong
thơ. Được biết, thời gian ở Thủ Đức là lúc Thầy và một thư ký tòa soạn tờ báo
có tiếng - một cái lò luyện người viết trẻ như tôi - đang xảy ra bất hòa nặng. Có
thể vì biết tôi đang viết ở đó và cũng có thể vì bản tính của ông, nên không
một lần nào Thầy có nhận xét không tốt về người kia, một người tôi cũng rất yêu
mến. Bị kẹt giữa “hai làn đạn...cà nông”, tôi cũng khổ tâm nhưng không một lần
hé môi. Thầy có vẻ bằng lòng về sự tỉnh bơ ấy của tôi.
Hết 4 tháng của giai đoạn một, một số không
nhỏ được đi ngành, tức là được chuyển sang những binh chủng chuyên môn không
tác chiến như câu ở quân trường thường nói “Nhất Nhu, nhì Cụ, tam Tài, tứ Y” và
Thầy rời Thủ Đức đi học ngành quân nhu. Tôi ở lại đi cho hết chín tháng để ra
mặt trận thành lính tác chiến, mà cái chết có khi ở ngay dưới cái võng căng ra
trong một khu vườn một vùng quê nào đó trước và cả sau khi nổ súng, “nhẹ” thì
cũng có thể về trên một brancard để khi tỉnh dậy có khi thấy không còn chân tay
nữa! Thật lạ lùng, trong ngày mãn khóa, cái lon chuẩn úy vừa gắn chưa ngay ngắn
trên ve áo thì người ta đọc tên tôi đi một đơn vị chưa từng có ai ở Thủ Đức đi,
đó là về một trung tâm nuôi dạy ...chó! Rất ngạc nhiên, băn khoăn tự hỏi không
hiểu sao lại được về một chỗ “cù lần” nhưng xem ra chữ thọ thì lớn như vậy.
Dòng đời cứ đưa đẩy, tôi vẫn cứ chưa thể chấp nhận
việc mình phải đi lính, tôi là một nhà giáo không phải lính nhà nghề thì tại
sao lại...ra nông nỗi! Chưa kể ra đơn vị ở ngay nách Sài gòn, giáo sư chuẩn úy
phải làm việc giữa lính tráng và quan mà phần đông đều...dốt không biết văn
chương là gì, lúc ấy chưa tới 30 đang rất ghiền văn chương lại chưa có mối tình
nào vắt vai, lòng tự ái bị tổn thương nặng nên tôi đã nghĩ thế. Một lần đi công
tác về Cục Quân nhu, có việc phải vào phòng ông Cục trưởng, đọc giấy tờ tôi mang
đến bỗng ông cười hỏi : Cậu là CTC hả? Có đọc thơ cậu, sao mà chán chiến tranh
đến thế. Cậu là thế nào với ông Lan, ông ấy là bạn tôi đấy” “Thưa, tôi là học
trò của Thầy”, ông đại tá bảo “Lan nói tôi móc cậu về đây đấy!”. Thì ra là vậy,
Thầy là thế đấy, Thầy ơi!
4-8-2008