Trang Chính      H́nh Ảnh      Hộp Thư      Truyệnt Thật Ngắn      Bút Kư      Thơ     Truyệnt Ngắn     Góp Nhặt     Sức khỏe và Gia Đ́nh     Gia Chánh     Phân Ưu     Tin Vui     Tin Tức     Trở lại trang trước     

NHỮNG CON THÚ VÀ HOA

BIỂU TƯỢNG NƯỚC ÚC ĐẠI LỢI

 

Dương Văn Chung

 

Những người thổ dân xuất phát từ vùng Đông Nam Á châu đă đến định cư ở Úc khoảng 40.000 năm trước khi người Âu châu khám phá ra vùng đất nầy vào thế kỷ thứ 17. Đến năm 1770, Thuyền trưởng James Cook nhân danh Anh quốc chiếm hữu 6 vùng của Úc châu, lập thành 6 thuộc địa riêng lẻ trong những thế kỷ 18 và 19. Đến năm 1901 mới thành lập Chánh phủ Liên bang, gom chung 6 Tiểu bang lại thành Cộng đồng Liên bang Úc châu. Tuy nhiên mỗi Tiểu bang có quyền tự trị.

 

Nước Úc có nhiều chim muông, thú rừng và hoa. Quốc huy của nước Úc có từ lúc thành lập Chánh phủ Liên bang năm 1901, lấy thú và hoa làm biểu tượng. Thú gồm có con Kangaroo, tức là con đại thử và con emu hay là con đà điểu. Loại hoa wattle làm nền. Trên quốc huy c̣n có một bảng huy hiệu của 6 Tiểu bang trong Cộng đồng Liên bang Úc Đại Lợi là New South Wales, Victoria, Queensland, Westwern Australia, South Australia, Tasmania. Giềng chung quanh bảng huy hiệu tượng trưng cho sự đoàn kết của các Tiểu bang. Ngôi sao Liên bang nằm trên cùng và một băng chữ Úc Đại Lợi nằm dưới cùng của quốc huy. Hai Vùng lănh thổ có tư cách tự trị, tương đương với Tiểu bang la thủ đô Canberra và Northern Territory (thủ phủ là Darwin), mới thành lập sau nầy nên không có trong bảng quốc huy nước Úc.

 

 

 Mỗi Tiểu bang và Vùng lănh thổ chọn một thứ hoa làm biểu tượng :

  • New South Wales : hoa Waratah
  • Victoria: hoa Pink heath
  • Queensland: hoa Cooktown Orchid
  • Western Australia: hoa Mangles Kangaroo Paw
  • South Australia: hoa  Sturt’s Desert Pea
  • Tasmania: hoa Tasmanian Blue Gum
  • Canberra: hoa Royal Bluebell
  • Northern Territory: hoa Sturt’s Desert Rose

 

I. NHỮNG CON THÚ BIỂU TƯỢNG

 

Như trên đă tŕnh bày, hai loại thú biểu tượng trên quốc huy Úc Đại Lợi là Kangaroo và Emu. Nhưng ở Úc có một loại thú khác, rất phổ biến, cùng một họ với Kangaroo, nếu không nói đến e rằng thiếu sót. Đó là con Koala, sẽ được đề cập sau phần trinh bày về con Kangaroo.

 

  • Kangaroo: Là loài thú có vú (mammal) và có túi đăy (marsupial) ở Úc và các hải đảo lân cận. Kangaroo sanh con và mang con trong một cái túi đăy trước bụng. Có hơn 50 loại kangaroo, hai chủng loại lớn và nhỏ. Loại lớn thuộc họ Macropodidae,  có kangaroo đỏ và kangaroo xám cao đến 2 mét và nặng đến 85 kg và loại nhỏ hơn thuộc họ Potoroidae, có loại kangaroo rat (chuột kangaroo), thân dài khoảng 30 cm. Có những con kangaroo khổng lồ cao tới 3 mét và nặng 200 kg.

 

 

Theo chứng tích từ những bộ xương hóa thạch, những con kangaroo đầu tiên đă xuất hiện tại Úc cách đây khoảng 15 triệu năm.

Về h́nh trạng, hầu hết kangaroo có tai lớn và đầu tương đối nhỏ, chân trước nhỏ có 5 ngón, chân sau  dài  có 4 ngón. Mỗi ngón chân sau có móng rất bén nhọn để tự vệ. Chân sau có thể dài gấp mười lần chân trước. Khi di chuyển chậm, kangaroo sử dụng cả 4 chân. Khi cần phóng nhanh, chúng đứng lên, chỉ dùng 2 chân sau để nhảy phóng như nhảy c̣ c̣ (hoping). Đối với kangaroo lớn, một cái nhảy của nó có thể xa đến 5 mét và tốc độ di chuyển của kangaroo có thể vượt quá 50 km/giờ. Cái đuôi của kangaroo cũng rất quan trọng, dùng làm bánh lái cũng như tăng lực phóng khi di chuyển.

 

Một kangaroo cái mỗi lần có thai chỉ sanh một con kangaroo con. Kangaroo chuột có thể sanh 2 con. Kangaroo con rất nhỏ, chỉ nặng khoảng 1 g, ḅ trên thân mẹ, chung vào túi đăy trước bụng mẹ để bú và để được bảo vệ an toàn cho đến hơn một năm mới rời khỏi bụng mẹ, sống tự túc. Một con Kangaroo loại lớn có thể sống thọ đến 20-30 năm, các con loại nhỏ th́ đời sống ngắn ngủi hơn.

 

Kangaroo ăn cây cỏ. Những kangaroo loại nhỏ như kangaroo chuột cũng có thể ăn cả sâu bọ, những thú vật chết.

 

Kangaroo đỏ và xám có thể sống thành từng nhóm độ 10 con hay đông hơn, có đực có cái. Con đực được phân cấp, căn cứ theo tuổi tác và thể lực, con nào già nhứt và mạnh khỏe nhứt được coi là trưởng thượng, được đặc quyền làm t́nh với những con cái. Thường th́ đặc quyền nầy chỉ kéo dài khoảng một năm th́ có con đực khác, trẻ hơn và mạnh khỏe hơn, buộc con già phải nhường vị thế tối cao nầy. Sau đó con kangaroo già chết đi.

 

Kangaroo nhờ có móng vuốt, chân cẳng và đuôi khỏe mạnh, đánh lộn rất giỏi, như đấu vơ đài.

 

 

Ở Úc chạy xe đường trường dễ gặp kangaroo bất ngờ băng qua lộ, gây ra tai nạn giao thông.

 

   Cho nên trên đường chạy ngang b́a rừng thường có dấu hiệu kangaroo băng qua lộ để cảnh báo tài xế.     

  

                                                        

 

 

·        Koala

C̣n có tên là Koala gấu. Sự thật nó không phải là gấu. Koala cũng là loài thú có vú và có túi đăy để mang con như kangaroo. Koala có lông mao mềm dầy, màu xám hoặc màu  nâu

 

Koala ở miền nam nước Úc lạnh lẽo có lông dầy hơn Koala ở miền bắc ấm áp. Mũi của koala lớn, không có lông, tai tṛn, thân dài từ 64 đến 76 cm, tay chân có ngón dài với móng vuốt cứng và nhọn, giúp cho chúng leo trèo được dễ dàng.

 

Hầu hết koala đều lặng thinh, chúng tṛ chuyện với nhau bằng một thứ âm thanh nghe giống như tiếng ngáy lớn.

Koala ăn lá và mầm non của độ 20 loại cây khuynh diệp trong số khoảng 600 loại hiện có tại Úc.

 

Koala gần như lúc nào cũng đeo những nhánh cây mà sống, ngủ gần suốt ngày, ban đêm chuyền từ cây nầy sang cây khác.  Koala phải tốn hao nhiều năng lượng để tiêu hóa những lá khuynh diệp vốn đă khó tiêu. Do đó nó phải ngủ thật nhiều để tái tạo năng lượng cần thiết.

Koala ít uống nước, nó sống nhờ chất nước trong lá khuynh diệp. Danh từ « koala » theo tiếng thổ dân có nghĩa là « không uống ».

 

Koala mang thai độ 35 ngày th́ sanh một koala con, nặng không tới 1 g , chẳng khác ǵ  con chuột con, đỏ hỏn, mắt nhắm, không có tai. Điều kỳ diệu, cũng như ở kangaroo, là koala con tự ḅ lên ḿnh mẹ, t́m cách chung vào cái túi đăy trước bụng mẹ để bú sữa, koala mẹ  vận động bắp thịt để khép bớt miệng túi đăy lại để con không rớt ra ngoài. Trong khoảng thời gian koala con được trên 20 tuần đến 30 tuần tuổi, koala mẹ tập cho con ăn một hỗn hợp sền sệt, gồm có thức ăn  nhai nát trộn với phân của con koala mẹ trong đó có chứa chất khuynh diệp độc hại đối với hầu hết loài vật có vú. Sau sáu bảy tháng, koala con có thể leo ra khỏi túi đăy, ḅ trên ḿnh koala mẹ, và khi cần th́ trở vào túi đăy để bú sữa.  Khi được một tuổi koala con có thể rời mẹ để mẹ rảnh rang chuẩn bị cho lần mang thai tới.

 

 

 

·        Emu

Emu c̣n gọi là đà điểu, là loài chim chạy (ratite) lớn nhứt ở Úc, sống rải rác khắp nơi, một số sống ở sa mạc. Đà điểu có lông vũ màu nâu, nhưng không bay được v́ cánh ngắn và xương ức của chúng không đủ mạnh. Nhờ có chân rất dài (mỗi chân có 3 ngón) và mạnh, chúng chạy thật nhanh lên đến 50 km/giờ.

Đà điểu là loài chim đặc biệt, duy nhứt có lông kép, hai lông dính lại ở phần gốc.  Cổ của chúng chỉ có lông măng. Mỏ rộng và mềm.

Đà điểu vừa ăn cây cỏ vừa ăn thịt sống. Cái mề của con đà điểu nghiền nát thức ăn. Đà điểu nuốt một khối lượng lớn đá sỏi để giúp nghiền nát thức ăn ở trong mề.

Bộ cánh ngắn của đà điểu giúp chúng mát mẻ trong lúc nóng nực. Chúng nó có thể dang cánh ra để cho không khí lưu thông chung quanh cơ thể.

 

Đà điểu mái đẻ trứng, rồi đi chỗ khác để dồn nhiều trứng lại cho con trống ấp. Con trống ấp khoảng 8 tuần th́ đà điểu con nở. Đà điểu con có lông màu kem với những sọc đen chạy dài từ đầu xuống đến đuôi. Lúc đó con trống không rời ổ và ăn ít. Đà điểu con sống với đà điểu trống cho đến 18 tháng. Đà điểu mái nghỉ ngơi, phục hồi sinh lực để cùng với một con trống khác sanh con đẻ cái.

 

 

II. NHŨNG LOÀI HOA BIỂU TƯỢNG:

 

·        Wattle (làm nền của quốc huy)

 

Tên khoa học là Acacia pycnantha, thuộc họ Mimosaceae, lá xanh, bông vàng, h́nh cầu,  kết thành chùm ( là loại hoa mi-mô-sa ở Việt Nam).Người Úc rất thích loài hoa nầy. Hiệp Hội Wattle do Archibald Campbell thành lập năm 1899 tại Tiểu bang Victoria đă phát động ngày lễ hội hoa Wattle trong tháng 9 hàng năm nhằm khích lệ công nhận đó là loại hoa biểu tượng nước Úc, v́ khối lượng hoa Wattle không có nước nào nhiều bằng nước Úc.

Ngày 01/09/1988, nhân ngày Kỷ niệm 200 năm người Anh đến định cư ở Úc, Acacia pycnantha được công nhận là hoa biểu tượng cho quốc gia. Ngày đó Thủ Tướng phu nhân, Bà Hazel Hawke, trồng một cây Wattle Vàng (Golden Wattle) trong vườn Australian National Botanic Gardens.

 

Bốn năm sau đó, 1992, Bộ Môi Sinh Liên bang Úc chánh thức tuyên bố ngày 1 tháng 9  hàng năm là  “Ngày lễ hội hoa Wattle của nước Úc”.

 

 

  • Waratah ( Biểu tượng Tiểu bang NSW)

 

 Hoa màu đỏ, đường kính từ 7 tới 10 cm, cành hoa dài tạo thành bụi cao tới 4 mét, lá xanh đậm, dài từ 13 đến 15 cm, tên khoa học là Telopea speciosissima, phát sinh từ tiếng Hy Lạp “Telopos”, có nghĩa “ nh́n thấy từ xa” và speciosissima do tỉnh từ La tinh “specious” là “đẹp đẽ”. Telopia thuộc họ Proteaceae.

      Waratah được nhận là biểu tượng của Tiểu bang NSW vào ngày 24/10/1962.

 

 

 

 

 

 

 

  • Pink Heath ( Biểu tượng Tiểu bang Victoria )

 

 

 

 

 

Bụi hoa cao độ 1 mét, lá dài  từ 4 đến 16 mm. Hoa màu hồng, h́nh cái chuông dài 25 mm, tên khoa học là Epacris impressa, thuộc họ Epacridaceae. Epacris do tiếng Hy Lạp “epi” có nghĩa là “upon” ở trên và “akris”có nghĩa  là “ngọn đồi”, chữ “impressa” do tiếng La tinh “impressed” hay “indented” mang ư nghĩa “chen kẻ” cứ 5 hoa mọc thẳng hàng trên cành hoa, rồi 5 hoa khác mọc thẳng hàng tiếp theo ở phía bên kia của cành hoa.

Victoria là Tiểu bang tiên phong chọn một loài hoa làm biểu tượng vào ngày 11/11/1958 và loài hoa đó là Pink Heath.

 

 

 

 

 

  • Cooktown Orchid ( Biểu tượng Tiểu bang Queensland)

 

 

Là loại hoa lan, có tên khoa học là Dendrobium bigibbum. Dendrobium do tiếng Hy Lạp “dendron” có nghĩa là “cây” và “bios là “đời sống”. Tên đặc biệt của nó là phalaenopsis, gốc từ tiếng Hy Lạp “phalaina” là “sâu bướm”, v́ h́nh dáng của hoa rất giống sâu bướm, màu hồng sậm. Cooktown  là tên một địa danh miền Bắc Queensland có con sông Endeavour, nơi mà thuyền trưởng Cook của Anh Quốc vào năm 1770 đă có dịp ngừng lại để sửa tàu. Ven bờ sông nầy có nhiều Cooktown orchid mọc.

Loại lan nầy dễ trồng, rất hợp với phong thổ Queensland, nên được chọn làm biểu tượng của Tiểu bang ngày 19/11/1959.

 

 

 

 

 

  • Mangles Kangaroo Paw ( Biểu tượng Tiểu bang Western Australia)

 

Có tên khoa học là Anigozanthos manglesii, thuộc họ Haemodoraceae.

Anigozanthos có thể do từ Hy Lạp “Anises”, có nghĩa là “không đều” hay là “xiên xéo” và “anthos” nghĩa là “hoa”, ám chỉ phần cuối của hoa gồm 6 cánh không bằng nhau. C̣n manglesii là để vinh danh Robert Mangles, người đă thí nghiệm gieo trồng loại hoa nầy trong khu vườn của ông ở Anh quốc.

Tên thường gọi, Kangaroo Paw v́ hoa nầy rất giống bàn chân của Kangaroo.

Hoa màu xanh lục, nền màu đỏ, được nhận làm biểu tượng của Tiểu bang Tây Úc vào ngày 9/11/1960.

 

 

 

 

 

 

 

  • Sturt’s Desert Pea (Biểu tượng Tiểu bang South Australia)

 

Tên khoa học là Swainsona formosa, thuộc họ Fabaceae. Là một loại dây ḅ dưới đất, có bông dài khoảng 9 cm, màu đỏ thắm, kết từng chùm từ 6 đến 8 cái trên một nhánh ngắn và thẳng đứng. Trên mỗi cánh hoa có nổi phồng lên một cái mụt màu đen bóng, trông giống hột đậu.

Thuyền Trưởng Charles Sturt (1795-1869) phát hiện loại hoa nầy vào năm 1844 trong chuyến đi thám hiểm giữa Adelaide (South Australia) đến miền trung bộ nước Úc.

  
Tên Swainsona để vinh danh Isaac Swainson người đă bảo quản Vườn bách thảo tư Twickenham gần London vào khoảng năm 1789. Và Formosa , từ La Tinh, có nghĩa là đẹp.

Sturt’s Desert Pea được chọn làm biểu tượng của Tiểu bang Nam Úc vào ngày 23/11/1961.

 

  • Tasmania Blue Gum (Biểu tượng Tiểu bang Tasmania)

                                                                       

Tên khoa học là Eucalyptus globulus, thuộc họ Myrtaceae, do nhà thực vật học người Pháp, Jacques-Julien Houton de Labillardiere (1755-1834), là người đầu tiên t́m thấy ở bờ biển đông nam đảo Tasmania khoảng năm 1792-93.  Đó là một trong số trên dưới 800 loại cây khuynh diệp tại Úc. Cây Tasmanian Blue Gum có thể cao tới 70 mét và  đường kính của thân cây có thể tới 2 mét, lá xanh, bông h́nh cầu (globulus),  trắng ngà.

Tasmanian Blue Gum được chọn làm biểu tượng của Tiểu bang Tasmania vào ngày 27/11/1962.

 

 

 

 

 

 

  • Royal Bluebell (Biểu tượng thủ đô Canberra)

 

Tên khoa học là Wahlenbergia gloriosa, thuộc họ Campanulaceae.

Wahlenbergia là tên do nhà thực vật học người Đức, Heinrich Schrader, đặt ra để vinh danh Georg Goran Wahlenberg (1780-1851), Giáo sư Thực Vật  ở Uppsala, Thụy Điển. Từ La Tinh Gloriosa có nghĩa là “glorious”, rực rỡ, lộng lẫy. Hoa h́nh ngôi sao 5 cánh, đường kính 2-3 cm, màu tím xanh, lợt dần về phía nhụy.

Royal Blue Bell được chọn làm biểu tượng  của thủ đô Canberra (ACT, Australian Capital Territory) vào ngày 26/05/1982.

 

 

 

 

 

  • Sturt’s Desert Rose (Biểu tượng Northern Territory)

 

Tên khoa học là Gossypium sturtianum, thuộc họ Malvaceaeae. C̣n có tên Darling River Rose, Cotton Rosebush và Australian Cotton.  Gossypium xuất phát từ tiếng La Tinh “gossypion”, cây bông vải. Sturtianum để vinh danh thuyền trưởng Charles Sturt (1795-1869) đă t́m thấy loại hoa nầy trong chuyến đi đến miền trung bộ nước Úc những năm 1844-45.

Bụi hoa Sturt’s Desert Rose cao từ 1 mét đến 2 mét.

Lá màu xanh đậm., h́nh bầu dục, dài độ 5 cm. Cánh hoa dài 5 cm màu hoa cà, đài hoa đỏ. Nhụy hoa (trái) dài 1 cm, gồm nhiều hột nhỏ có lông tơ.

Sturt’s Desert Rose được chọn làm biểu tượng cho Vùng  Lănh  thổ Bắc Úc vào ngày 12/07/1961.