LỚP
ĐỆ THẤT ĐẦU TIÊN
Dương
Văn Chung
Năm 1950, không nhớ rõ tháng mấy.
Suốt mấy ngày
học sinh tụ tập rất đông ngoài rào cũng như trong sân trường Nam Tiểu Học tỉnh
lỵ Châu Đốc để trông ngóng kết quả cuộc thi tuyển vào vào lớp Đệ Thất Trường
Trung Học Châu Đốc.
Tin tức từ phòng chấm thi từng lúc được loan truyền:
đang rọc phách…, đang chấm bài…, đang chấm lại…, đang ráp phách…, đang họp hội
đồng…, đang lên danh sách…, đang kiểm tra lần cuối.
Cuối cùng, sự mong đợi đã đến. Ngày nọ, khoảng 3 giờ
chiều, kết quả được công bố. Tôi được trúng tuyển vào lớp Đệ Thất đầu tiên của
Trường Trung Học Châu Đốc. Gọi là “đầu tiên”, vì trước đó nền giáo dục tại Việt
Nam đều dạy theo chương trinh Pháp, xem nặng Pháp văn, bảng tên lớp cũng ghi bằng
chữ Pháp, như ở bậc tiểu học có Cours Enfantin (lớp Đồng Ấu hay lớp Năm), Cours
Preparatoire (lớp Dự Bị hay là lớp Tư), Cours Elémentaire (lớp Sơ Đẳng hay lớp
Ba), Cours Moyen (lớp Trung Đẳng hay lớp Nhì), Cours Supérieur (lớp Cao Đẳng
hay lớp Nhứt), Cours Certifié (lớp Tiếp Liên). Ở bậc trung học có lớp Première
Année (Năm thứ Nhứt), Deuxième Année (Năm thứ Hai)…Về chứng chỉ và văn bằng, học
hết lớp Ba tiểu học phải thi để lấy chứng chỉ Sơ Đẳng Tiểu Học. Trong kỳ thi
đó, nếu ai đậu thêm bài thi Pháp văn thì trên chứng chỉ ghi có “mention” (avec
mention). Cuối lớp Nhứt tiểu học thi lấy chứng chỉ Tiểu Học Bổ Túc Đông Dương
(Certificat D’Etude Primaire Complémentaire Indochinois, viết tắt là
C.E.P.C.I.), có viết chánh tả và trả lời câu hỏi bằng Pháp văn. Ở bậc trung học,
cuối năm thứ Tư thi lấy bằng Brevet du Premier Cycle ( Trung Học Đệ Nhứt Cấp)
hoặc Diplôme (Bằng Thành Chung). Cuối bậc trung học, thi lấy bằng Tú Tài I và
II (Baccalauréat). Ai đậu chứng chỉ
C.E.P.C.I. có thể ra làm giáo viên hoặc thư ký rồi. Rất ít người đậu bằng
Brevet hoặc Diplôme, đừng nói chi đến Baccalauréat, càng hiếm hoi hơn.
Bắt đầu từ niên học 1950/51, tôi thi vào trung học,
chương trinh giáo dục Việt Nam được “chuyển ngữ” thành Việt ngữ, mặc dầu trong
các kỳ thi Trung Học Đệ Nhứt Cấp (Thay cho bằng Brevet và Diplôme) và Tú Tài
(thay cho Baccalauréat), Pháp văn và Anh
văn vẫn còn được xem trọng, thi vừa viết, vừa vấn đáp.
Một thực tế hơi phũ phàng là rất nhiều người xem nhẹ
chương trình Việt. Bao nhiêu năm sống dưới sự đô hộ của người Pháp, cái gì cũng
của Tây, xài xe của Tây, đi Tây học, ở nhà Tây, nói tiếng Tây…Cái gì của Tây cũng
tốt hơn của ta. Đó là chuyện hết sức bình thường, không có gì đáng chê trách.
Buổi giao thời lúc vừa chuyển qua chương trình Việt, nhiều người giàu có cho
con đi Sài Gòn hoặc Đà Lạt tiếp tục học chương trinh Pháp. Con nhà nghèo có
phương tiện đâu mà đi, thôi đành ngâm những câu an ủi “ ta về ta tắm ao ta”,
“chỗ quê hương đẹp hơn cả ”.
Bậc phụ huynh cũng
có lý khi chịu tốn kém cho con đi xa tiếp tục học chương trình Pháp, vì
bước đầu, sách giáo khoa bằng Việt ngữ rất hiếm hoi và không hoàn chỉnh, quý thầy
cô giáo phải tự dịch bài từ tiếng Pháp ra, thiếu giáo viên trầm trọng. Quý thầy
cô giáo tốt nghiệp sư phạm, đang dạy tiểu học như Bà Nguyễn Thị Mót, Thầy Châu
Văn Đồng, Thầy Thái Văn Thân, Thầy Phan Cao Nhựt…v.v. được mời lên dạy lớp đệ
Thất, Đệ Lục. Quý vị là những ân sư khai trí cho chúng tôi trong những năm đầu
học trung học.
Ông Hiệu Trưởng đầu tiên của tôi ở bậc Trung học là
Ông Đốc Phạm Ngọc Đa. Lúc bấy giờ Thầy Đa là Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Việt
Nam, Thầy đã xây Bạch Vân Tịnh xá trên triền núi Sam để tôn trí một tượng Đức Phật Thích Ca, có lẽ lúc Ngài còn tu khổ
hạnh, người rất khô gầy, đang tọa thiền. Thầy Đa là một trong những vị đã sang Ấn
Độ để cung thỉnh một cây bồ đề nhỏ, con
của cây bồ đề mẹ mà Đức Phật đã ngồi dưới gốc nhập định bốn mươi chín
ngày rồi thành đạo. Trong lúc chờ đợi xây cất Bồ Đề Đạo Tràng, cây bồ đề nhỏ đó
tạm để trong rào nhà Thầy Đa (đối diện với Trường Nam Tiểu Học Châu Đốc) thì bị
người ta ban đêm lẻn vào chặt ngang. Thầy Phạm Ngọc Đa, Thầy Châu Văn Đồng, Thầy
Lê Quang Điện và một số vị khác đã khổ công vun dưỡng lại cây bồ đề trước khi dời
đến trồng tại Bồ Đề Đạo Tràng. Mới nhập học lớp Đệ Thất tôi đã có dịp đọc một
bài thơ Đường luật, thất ngôn bát cú (tám câu, mỗi câu bảy chữ) của Thầy Phạm
Ngọc Đa, bút hiệu Bạch Liên, khuyên mọi người tu hành, tôi quên mất sáu câu đầu,
chỉ còn nhớ hai câu kết luận :
Bao
nhiêu danh lợi bao nhiêu mộng
Một
kiếp tu hành một kiếp chơn.
Tôi còn nhớ trường Trung học Châu Đốc có hai lớp Đệ
Thất đầu tiên. Trường “ở nhờ” một dãy lớp của Trường Nam Tiểu học Châu Đốc,
ngoài cổng bước vào, về phía trái. Căn đầu tiên là văn phòng, có treo cái trống
chầu trước cửa dùng để báo giờ vào học, giờ chơi và giờ về. Kế đến là các lớp học
theo chương trinh Pháp, rồi đến hai lớp đệ Thất chương trinh Việt. Trước dãy lớp
học là sân quần vợt tráng xi măng để quý thầy đánh trong những ngày giờ nghỉ.
Bên kia sân quần vợt là cây phượng vĩ, tàn lớn, hoa nở đỏ rực vào mùa hè.
Học sinh chưa có đồng phục, có gì mặc nấy, miễn là
kín đáo, gọn gàng, kẻ đi giày dép, người đi guốc. Thỉnh thoảng có nam sinh mặc
đồ bà ba trắng, đội nón cối đánh phấn trắng như học trò xưa, đi guốc dong. Nữ
sinh thường để tóc dài kẹp hoặc để xõa phủ lưng. Có người xài cặp da, có người
xài cặp đan bằng lá bàng gọi là cặp đệm. Mực tím đựng bình với ngòi viết lá tre
và ngòi viết rong vẫn còn thông dụng, thỉnh thoảng có người xài viết máy hiệu
Kalo, chưa thấy có viết nguyên tử.
Thời gian qua nhanh quá, tính từ lúc nhập học lớp Đệ
Thất đến nay đã năm mươi sáu năm rồi,
tôi không còn nhớ rõ Trường Trung học Châu Đốc đổi thành Trường Trung Học Thủ
Khoa Nghĩa từ bao giờ. Có người nói từ năm 1954, nhưng tôi nhớ hình như sớm
hơn, lúc tôi học lớp Đệ Lục (1951/52) hoặc lớp Đệ Ngũ (1952/53), Thầy Ng.Gia
Thi dạy nhạc đã đặt bản nhạc “Thủ Khoa Nghĩa” rồi. Trong bản nhạc đó có câu “Thủ
Khoa Nghĩa, Thủ Khoa Nghĩa muôn năm ! ”.
Cuối năm Đệ Tứ (niên khóa 1953/54), chúng tôi đi Cần
Thơ thi lấy bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp tại Trường Trung Học Phan Thanh Giản.
Học hết lớp Đệ Tam Trường Trung Học Thủ Khoa Nghĩa
chưa mở được lớp Đệ Nhị, chúng tôi đành ngậm ngùi tạm biệt ngôi trường cũ, mỗi
người một ngả để tìm trường khác tiếp tục việc học.
Hơn nửa thế kỷ nhìn lại, những hình ảnh thân thương
hiện về, khi tỏ khi mờ, vì đầu óc của một
người “thất thập cổ lai hi” khi nhớ khi quên. Ngày nay trường Thủ Khoa Nghĩa đã
xây cất lại ở một địa điểm mới, to lớn đẹp đẽ hơn, nhưng tôi vẫn luyến nhớ ngôi
trường cũ như Bà Huyện Thanh Quan nhớ Thăng Long Thành:
Lối
xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền
cũ lâu đài bóng tịch dương
Và tình thầy trò, tình đồng môn không hề lạt phai, giống
như “Thủ Khoa Nghĩa , Thủ Khoa Nghĩa muôn năm”.