HÀ KỲ LAM
MỘT CHUYẾN VƯỢT BIỂN
Thương thuyền Tourville của hãng Chargeurs Réunis
NHỮNG SỰ KIỆN LIÊN QUAN THUYỀN NHÂN VIỆT NAM
• Tên gọi thuyền nhân Việt Nam dùng để chỉ những người tỵ nạn
đào thoát Việt Nam bằng thuyền và tàu sau chiến tranh Việt Nam, nhất là trong
khoảng thời gian 1978 và 1979, nhưng tiếp tục đến đầu thập niên 1990.
• Thuyền nhân phải đương đầu với bão tố, bệnh tật, đói khát, và trốn
tránh hải tặc. Thuyền của họ không đủ khả năng vượt đại dương, chỉ hướng đến hải
phận quốc tế xa bờ khoảng 240 cây số về hướng đông. May mắn thì được các thương
thuyền cứu, hay đến được bến bờ sau 1-2 tuần. Không may thì phải tiếp tục hành
trình hiểm nguy trên biển, chịu đói khát, bệnh tật, và bị hải tặc cướp phá, trước
khi tìm được sự an toàn.
Thuyền nhân phải đương đầu với bão tố, bệnh tật, đói khát, và trốn tránh hải tặc…
Thuyền của họ không đủ khả năng vượt đại dương, chỉ hướng
đến hải phận quốc tế xa bờ khoảng 240 cây số về hướng đông…
• Theo Phủ Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, chính sách chèn ép ngày càng
gia tăng của Việt Nam đã tạo sự ra đi hàng loạt của khoảng 840,000 người Việt
sang các nước lân bang.
• Cũng
theo Phủ Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, ít nhất 250,000 người Việt đã bỏ mạng
trên biển trong làn sóng ra đi của thuyền nhân Việt Nam, vì chìm ghe, bệnh tật,
đói khát, và hải tặc.
• Hàng
trăm nghìn thuyền nhân vượt thoát khỏi Việt Nam trong năm 1978 và 1979 đã gây
ra một vấn nạn nhân đạo quốc tế đối với các nước Đông Nam Á càng ngày càng quyết
liệt không cho thuyền nhân đổ bộ lên bờ.
• Vào tháng Bảy 1979 Liên Hiệp Quốc triệu tập một hội nghị quốc tế tại
Genève, tuyên bố rằng một tình thế nghiêm trọng xãy ra tại Đông Nam Á đối với
hàng trăm nghìn người tỵ nạn. Để làm sáng tỏ sự hiển nhiên của vấn đề, Phó Tổng
Thống Walter Mondale dẫn đầu phái đoàn Mỹ tham dự hội nghị. Kết quả là các nước
Đông Nam Á đồng ý cho người tỵ nạn tạm trú, Việt Nam đồng ý đẩy mạnh chương
trình ra đi có trật tự, và các nước Phương Tây đồng ý xúc tiến nhanh chương
trình tái định cư người tỵ nạn.
• Từ
khi được thành lập năm 1950, Phủ Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đã giúp 34 triệu
người tỵ nạn xây dựng lại đời sống.
• Từ
1975 đến 1979 khoảng 5,000 người Việt tỵ nạn đã được các thương thuyền cứu vớt
đưa vào Singapore.
• Sử
dụng một trại cũ của lục quân Anh, năm 1978 Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ đã biến nó thành
Trại Tỵ Nạn Việt Nam tại Sembawang, Singapore, để dung nạp những người tỵ nạn
này.
• Cuối
tháng 6, 1996, Trại Tỵ Nạn Việt Nam tại Singapore chính thức đóng cửa, sau khi
99 thuyền nhân cuối cùng, nhập trại từ 1990, tự nguyện trở về Việt Nam.
MỘT CHUYẾN VƯỢT BIỂN
Hà Kỳ Lam ghi
“Tam thập lục kế, đào vi thượng sách.” Câu nói cổ xưa ấy của người
Trung Hoa vẫn thường trở về trong tâm trí những người Việt đang tuyệt vọng dưới
chính quyền mới của người cộng sản sau khi Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam Việt
Nam) thua trận vào tháng Tư năm 1975. Và đào thoát bằng đường biển là phương
cách được lựa chọn bởi đa số những người Việt muốn bỏ nước ra đi, kể cả gia
đình tôi. Cuộc trốn thoát khỏi Việt Nam của chúng tôi là một hành trình kỳ lạ với
tất cả những bất trắc hiểm nghèo của nó. Nếu không vì tự do, và không vì mưu cầu
cơ hội cho con cháu mình được sống trong một xã hội có nhân quyền, nhân phẩm,
thì chúng tôi đã không liều lĩnh như thế, và đã không phải đau khổ mà quyết định
bỏ lại mọi thứ , mọi nguời thân yêu để ra đi.
MỘT QUYẾT ĐỊNH THẬT KHÓ.
Cân nhắc lợi hại, hơn thiệt giữa ra đi và ở lại thật chẳng hề dễ dàng đối với
chúng tôi. Một mặt, viễn ảnh một chân trời mới ở đó tự do, cơ hội, giá tri con
người không phân biệt tín ngưỡng, v.v. được bảo đảm cho mọi người, có sức cuốn
hút không cưỡng lại được. Mặc khác, điều khó khăn nhất đối với vợ tôi là phải từ
giã người mẹ già bảy mươi thân yêu. Bà không muốn đi với chúng tôi, vì e không
chịu nỗi gian khổ của chuyến đi. Và không ai biết được khi nào chúng tôi sẽ trở
về – nếu có bao giờ chúng tôi còn có được cơ may trở về – để thăm lại bà. Rồi
còn những lo âu khác, như hiểm nguy của hành trình trên biển, xứ lạ quê người,
phong tục, văn hóa, ngôn ngữ, v.v. Chúng tôi băn khoăn liệu mình có đến được bến
bờ, và rồi có đương đầu được với mọi khó khăn ở một xã hội mới không. Nhưng dù
sao, chúng tôi phải ra đi, vì tự do, vì cơ hội tiến thân cho con em. Và chúng
tôi đã làm một quyết định đau lòng – có lẽ một quyết định đúng đắn.
TẠI ĐIỂM XUẤT PHÁT.
Mỗi giây phút tại điểm xuất phát dường như lâu bằng những ngày, những tháng,
hay những năm. Vợ tôi, hai con chúng tôi, 8 và 10 tuổi, cậu em vợ, đứa cháu vợ
11 tuổi, cậu em họ của vợ, và tôi, cùng với những người khác, tất cả phải lẫn
trốn ba ngày trong rừng dọc bờ biển được chọn trước, để chờ chiếc ghe do một
người trong tổ chức của chúng tôi đem đến. Chiếc ghe được dự trù sẽ đến một
ngày sau khi chúng tôi đến nơi. Do tình hình trên đường đi, ba ngày sau nó mới
đến được. Mặc dù đã được báo trước về sự chậm trễ này, không ai trong chúng tôi
có thể an tâm. Mọi người bắt đầu lo sợ bị lộ, bị bắt. Tôi cố hết sức trấn an những
người đồng hành bằng cách nói về những kinh nghiệm của mình trong các tình huống
căng thẳng mình đã gặp trước kia, mặc dù thật mỉa mai là chính tôi cũng chẳng
tin mấy những gì mình nói. Trực giác của một cựu quân nhân khiến tôi nghĩ rằng
kế hoạch đào thoát của chúng tôi đã thất bại. Tình thế này tương tự như hoàn cảnh
tác chiến. Giờ giấc tại mục tiêu phải càng chính xác càng tôát, không thì hỏng
hết. Điều tệ hại nhất là lãng vãng tại vùng mục tiêu quá lâu. Nhưng chúng tôi
chẳng có đường nào rút lui mà không bị bắt. Chúng tôi chỉ còn biết nằm tại đó
và cầu trời mọi sự sẽ êm xuôi, và chiếc ghe sẽ đến. Muỗi rừng, côn trùng, đói,
khát, tất cả họp lại làm chúng tôi khốn khổ thêm. Cuối cùng, vào khoảng 5 giờ
chiều ngày thứ ba, chiếc ghe của chúng tôi đến như một khúc khải hoàn. Nhiều
người trong chúng tôi khóc vì vui mừng và vì những tình cảm lẫn lộn. Chúng tôi
từ biệt Việt Nam, có lẽ mãi mãi.
GIỮA BIỂN KHƠI.
Đại dương mênh mông quá và tàn nhẫn quá. Chúng tôi là một nhóm 54 con người –
đàn ông, đàn bà, và trẻ con – trên mộtä xuồng máy bằng gỗ nhỏ bé không có mui
dài khoảng 8 thước, rộng khoảng 1,6 thước. Chúng tôi ngồi chật như cá hộp. Chiếc
ghe nhỏ cứ nhô lên, nhào xuống trên lưng những con sóng giận dữ. Thuyền chở khẳm,
chúng tôi chỉ cách mặt nước khoảng 50 cm, và mỗi lần một đợt sóng ập đến, nó bắn
nước khắp người chúng tôi. Nhưng, nhờ trời, biển những ngày đó không động lắm.
Trời nắng tốt. Suốt ba ngày chúng tôi chạy về hướng Mã Lai, với rất ít nước uống
trong ghe. Chúng tôi chỉ mang theo khoảng 37 lít nước cho 54 người. Như tôi đã
đề cập trên đây, thuyền của chúng tôi gặp khó khăn trên đường đến bãi xuất
phát. Để dễ dàng đi qua những trạm kiểm soát của cộng sản, tài công đã vứt xuống
sông hầu hết những vật dụng cần thiết cho chuyến đi của chúng tôi, những món đồ
nếu tìm thấy trong ghe chắc chắn sẽ tố giác với nhân viên trực gác là chúng tôi
đang mưu toan một cuộc vượt biển. Mỗi người trong chúng tôi chỉ được phát khoảng
60 mili lít nước một ngày. Cả trẻ em cũng phải tuân theo “điều lệ nước”. Chúng
tôi phải dự phòng nước trong trường hợp không đến được Mã Lai trong thời gian dự
trù. Hầu hết mọi người trong gia đình tôi đều dành phần nước của mình cho bé
gái của tôi, đứa nhỏ tuổi nhất và yếu đuối nhất trong gia đình. Chúng tôi rất
lo lắng cho sự sống còn của cháu. Cậu con trai 10 tuổi của tôi bắt đầu uống nước
tiểu của chính mình. Nhiều người lớn bắt chước nó, để chế ngự bớt cơn khát dữ dội.
Thật đau đớn khi nghĩ rằng chúng tôi đang trôi nổi trên sóng nưóc mà lại sắp chết
vì thiếu nước! Điều tệ hại nhất là mỗi ngày chúng tôi bị phơi dưới ánh nắng như
thiêu đốt. Cơ thể chúng tôi bị mất nhiều nước vì những đợt nóng dữ dội vùng nhiệt
đới. Vào cuối ngày thứ ba của hành trình, khi bé gái của tôi và vài đứa trẻ
khác đang ngắc ngoãi như sắp ngất lịm, thì chúng tôi trông thấy một chiếc tàu ở
quãng xa, một chiếc tàu trắng in hình trên nền biển xanh bao la. Đó là lần đầu
tiên chúng tôi mục kích được sự sống trêïn mặt đại dương bao la trong ba ngày
đi trên biển. Chúng tôi biết mình đang ở hải phận quốc tế. Niềm hy vọng làm rạng
rỡ mọi khuôn mặt. Chúng tôi sẽ xin cứu, hoặc cùng lắm sẽ có nưóc uống. Những
tàu lớn bao giờ cũng có nhiều nước uống. Khi chiếc tàu đến trong tầm quan sát
được mọi vật trên tàu, chúng tôi bắt đầu vẫy tay. Nó tiếp tục tiến gần chúng
tôi, đoạn dừng lại ở một khoảnh cách, có vẻ như sợ làm ghe chúng tôi chìm vì những
đợt sóng lớn do tàu gây ra nếu nó tiến gần chúng tôi quá. Chúng tôi cho ghe cặp
bên hông tàu. Người ta thòng một thang dây xuống, và tôi là người leo lên, và
tiếp chuyện với vị thuyền trưởng. Đó là một thương thuyền của Á Rập, tên là
SALAH ALDEEN, nhưng thuyền trưởng là người Anh. Ông ta từ chối cứu chúng tôi,
bảo rằng ông không được phép. Nhưng ông ta cho nước uống, lấy bao nhiêu cũng được.
Chúng tôi không cảm thấy cần thực phẩm, mặc dù đã sáu ngày không ăn. Vì quá
khát nước, chúng tôi không cảm thấy đói. Cho nên, chúng tôi đã lấy những gì
mình thèm nhất: nước uống, một ít trái cây, và nhiên liệu. Các thủy thủ muốn
cho chúng tôi thức ăn hộp, nên chúng tôi lấy một ít. Tôi nhờ viên sĩ quan hải
hành, cũng là người Anh, cho biết điểm đứng chính xác của ghe chúng tôi. Thì
ra, chúng tôi đang ở điểm giữa Việt Nam và quần đảo Borneo của Nam Dương. Chúng
tôi đã lạc đường vì chạy quá xa về hướng Đông Nam, thay vì hướng Tây Nam đi Mã
Lai như chúng tôi đã hoạch định. Vì thế, chúng tôi đang ở xa Mã Lai hơn lúc khởi
hành. Đêm ấy chúng tôi tiếp tục hành trình, sau khi đổi đúng hướng, lòng tự hỏi
liệu có đến nơi được trước khi máy hư, hoặc trước khi một trận bão thình lình
thổi qua vùng. Chúng tôi không có máy dự bị. Chúng tôi thấy nhiều đèn của tàu
bè rãi rác trong đêm. Chưa bao giờ trong đời tôi thấy biển đen như thế. Thế rồi
máy ghe bỗng ngừng hẳn. Mọi cố gắng khởi động máy đều thất bại. Mọi người biết
rằng điều rắc rối lớn – có thể là điều rắc rối chết người – cuối cùng đã đến.
Chúng tôi đánh tín hiệu cấp cứu (S.O.S) bằng cái đèn pin có công suất mạnh do một
thủy thủ Á Rập tốt bụng đã tặng tôi lúc ở trên tàu. Chỉ một chiếc tàu đáp lại
tín hiệu kêu cứu của chúng tôi bằng cách nháy đèn. Chúng tôi tiếp tục bấm tín
hiệu cấp cứu, và tiêp tục chờ suốt đêm. Chẳng có gì xãy ra. Thế rồi, sáng sớm
chúng tôi thấy một chiếc tàu đến. Ở một khoảng cách vừa phải nó dừng lại. Một
chiếc na-nô được thả xuống nước, và một thủy thủ chèo về phía chúng tôi để buộc
một đầu dây thừng vào ghe chúng tôi. Ghe được kéo về phía chiếc tàu và chúng
tôi được cứu. Đó là một chiếc tàu Pháp, tàu TOURVILLE của công ty hàng hải
Chargeurs Réunis. Nó đã đáp lại sự kêu cứu trong đêm của chúng tôi, và đã chờ đến
sáng để đến cứu chúng tôi.
Trong khi leo những bước thang dây lên con tàu nhân đạo Tourville,
chúng tôi không khỏi ngoáy cổ nhìn lại chiếc ghe trung thành nhỏ bé của mình nằm
lại thật tội nghiệp, bé tí như một món đồ chơi dưới kia, giữa Thái Bình Dương.
Một thủy thủ với cái rìu trong tay, bước xuống chiếc ghe và bổ nó mấy nhát. Ghe
từ từ chìm xuống nước, mang theo tất cả nước uống mà chỉ mấy phút trước đây
chúng tôi còn trân quí hơn châu báu quí giá nhất thế giới. Hai điều đầu tiên
tôi cảm được khi đã đặt chân lên sàn tàu cứu nạn là sự an toàn và tự do. Không
còn sợ chìm xuồng, sợ bão tố, sợ cá mập; những giờ phút khắc khoải đã qua rồi.
Tất cả chúng tôi đều cảm động trước tấm lòng của thủy thủ đoàn tàu Tourville.
Phải chăng đó là tình người? Có thể chẳng bao giờ tôi trả lời được câu hỏi này,
nẩy sinh từ đáy lòng mình lúc ấy, nhưng với chúng tôi con tàu Tourville là vị
anh hùng nhân đạo của mình. Tôi bước vào sàn tàu, và tôi biết rõ một điều: cửa
vào THẾ GIỚI TỰ DO vẫn rộng mở; chỉ có lối thoát khỏi ĐỊA NGỤC thì vẫn hẹp, vẫn
đóng kín như tự bao giờ, và sẽ mãi mãi như thế. Xem như đại diện cho 54 thuyền
nhân vừa được tàu Tourville cứu trên biển, tôi được đưa vào văn phòng thuyền
trưởng, vì ông ta muốn gặp tôi. Điều đầu tiên ông ta nói với tôi là chúng tôi
đã liều thân đi tìm tự do, thì bây giờ chúng tôi đã có tự do rồi đấy. Nhân
danh tất cả đồng hành trên chiếc xuồng nhỏ bé của chúng tôi, tôi cám ơn ông đã
cứu vớt. Trong cuộc đàm thoại, tôi được biết thân mẫu ông ta là người Việt, và
thân phụ là người Pháp, và trước 1975 tàu ông chạy trên hải trình giữa Bắc Phi
và Sài Gòn. Ông nói dạo ấy cứ 2-3 tháng thì tàu Tourville lại một lần cập bến
Sài Gòn, và ông không lạ gì con phố Tự Do, và phố Nguyễn Huệ.
Thương thuyền Tourville của công ty hàng hải
Chargeurs Réunis, chiếc tàu đã cứu chúng tôi
Hai mươi bốn giờ hải hành nữa – trên một con tàu thoãi mái hơn, an toàn
hơn, và lớn hơn nhiều – đã đưa chúng tôi đến Singapore, tại đó Cao Ủy Tỵ Nạn của
Liên Hiệp Quốc đã tiếp nhận chúng tôi.
TRẠI TỴ NẠN SINGAPORE.
Bảy giờ sáng ngày 14-5-1981 thương thuyền Tourville cập bến Singapore và bàn
giao cho Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc 54 thuyền nhân được cứu trên biển ngày
hôm trước. Một xe buýt chở tất cả chúng tôi về trại trại tỵ nạn tọa lạc tại:
25 Hawkins Road
Sembawang, Singapore 2775
Trại này là một trong các trại tỵ nạn Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc thiết
lập trong vùng Đông Nam Á để giúp tái định cư làn sóng thuyền nhân Việt cuồn cuộn
đổ ra Biển Đông sau khi Cộng Sản chiếm Miền Nam Việt Nam tháng Tư 1975. Trại
này cũng là trại chuyển tiếp để người Việt tỵ nạn từ trại Galang, thuộc Nam
Dương, đổi chuyến bay trên đường đi địmh cư ở các đệ tam quốc gia.
Tại cổng trại tỵ nạn Singapore, tháng 5, 1981
Hàng đầu: Ngọc, cháu, Việt, con trai, Thủy Tiên, con gái, Tuấn, cháu
Hàng sau: Hà Kỳ Lam và vợ
Không phải tất cả mọi người trong nhóm chúng tôi, mà văn phòng Cao Ủy Tỵ
Nạn LHQ tại Singapore gọi chỉ danh là Nhóm tàu Tourville, đều lên đường đi định
cư cùng một đệ tam quốc gia, và cùng một lúc, vì do những yếu tố đoàn tụ gia
đình và những tiêu chuẩn khác nhau. Gia đình tôi, sau khi xin định cư ở Mỹ và
được chấp nhận, là những người cuối cùng trong nhóm rời Singapore. Trong 5
tháng ở trại tỵ nạn này, tôi đã tình nguyện giúp văn phòng Cao Ủy Tỵ Nạn trong
những công việc hằng ngày như dẫn người đi các sứ quán liên hệ làm thủ tục định
cư. Hoặc có khi đưa trại viên bị bệnh bất thường đi bệnh viện chữa trị.
Từ trái sang: Nhơn, bà xã tôi, Thủy Tiên, con gái, Quốc Việt, con trai, và tôi.
(Trại Tỵ Nạn Singapore, tháng 5, 1981)
Trại tỵ nạn Singapore độc đáo, không giống các trại tỵ nạn khác. Thuyền
nhân đến được trại này đều do các tàu lớn cứu trên hải trình các tàu này ghé
ngang Singapore, và mỗi ghe được cứu mang tên chiếc tàu đẫ cứu họ, như là một
cách chỉ danh trong hồ sơ tỵ nạn của trại. Chẳng hạn, nhóm những người thuộc
ghe chúng tôi có tên gọi là “tàu Tourville”. Người tỵ nạn tại trại Singapore
không được trợ cấp bằng thực phẩm như người tỵ nạn trong các trại khác ở Đông
Nam Á. Thay vào đó, họ được cấp phát hiện kim hằng tuần để tự mua thực phẩm. Có
2 tiệm tạp hóa ngay trong trại để phục vụ nhu cầu mua sắm cần thiết cho dân số
trại. Trong trại cũng có một bệnh xá để cung cấp thuốc men và cấp cứu cho người
tỵ nạn. Trại lại có các lớp dạy Anh ngữ cho người lớn và trẻ em, và giáo viên
là phu nhân của các nhân viên ngoại quốc có nhiệm sở tạiï Singapore; các bà
tình nguyện dạy không lương để giúp người tỵ nạn. Hằng ngày, từ 10 giờ sáng đến
10
Từ trái sang: Ngọc, em họ vợ, Phú, em trai vợ, Nhơn, bà xã tôi, Thủy Tiên,
con gái, Quốc Việt, con trai, và tôi. (Trại tỵ nạn Singapore tháng 5, 1981)
giờ đêm trại viên có thể rời trại đi khắp nơi tại Singapore, và thậm chí có thể
vượt qua cây cầu biên giới sang Mã Lai thăm chơi, và mua sắm, v.v. Điều đáng
nói về trại tỵ nạn Singapore là tàu của nước nào cứu thuyền nhân đưa vào
Bà xã tôi (giữa) dự một lớp học tiếng Anh tại trại tỵ nạn Singapore (tháng 6,
1981)
Một cô giáo tình nguyện từ Tân Tây Lan (Singapore tháng 6, 1981)
Hàng đầu, từ phải: Ngọc, em họ vợ, Việt, con trai, Tuấn, cháu vợ, Thủy Tiên,
con gái tôi.
Hàng sau, từ phải: Nhơn, bà xã tôi, Tuyết, cháu họ tôi, và một số thuyền nhân
cùng ghe.
(Trại tỵ nạn Singapore tháng 6, 1981)
Bọn trẻ rất thích cuộc sống ở trại tỵ nạn người Việt tại Singapore.
Từ dưới lên: Việt, Phú, Thủy Tiên, Tuấn, và Ngọc.
(Trại Tỵ Nạn Singapore tháng 7, 1981)
Singapore thì phải chịu trách nhiệm định cư họ tại quốc gia mình, trừ phi những
thuyền nhân đó hội đủ điều kiện đoàn tụ gia đình ở một nước khác. Vì thế, nhiều
cựu quân nhân QLVNCH rơi vào trại Singapore đã không còn cách nào xin tỵ nạn tại
Hoa Kỳ, chỉ vì họ không được tàu Mỹ vớt, hay vì không có thân nhân ở Mỹ thuộc
diện đoàn tụ gia đình bảo lãnh. Đó chính là trường hợp của tôi. Nhưng, may
thay, sự kiện tôi là một cưu quân nhân Lực Lượng Đặc Biệt của QLVNCH đã cho tôi
đủ yếu tố trở thành loại 2 (những người cộng tác với người Mỹ trong thời chiến),
đáp ứng được đòi hỏi của luật di trú Mỹ để được tỵ nạn. Ở trại tỵ nạn Singapore
quy chế loại 3 (cựu quân nhân của QLVNCH) không áp dụng cho tiêu chuẩn định cư ở
Mỹ, tuy nó được áp dụng ở các trại khác tại Thái Lan, Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật
Tân, v.v.
Điều sau cùng, nhưng không phải là điều nhỏ nhất, về trại tỵ nạn
Singapore mà tôi muốn nêu lên, đó là trại tỵ nạn nhân đạo nhất, và hoàn chỉnh
nhất trong khu vực. Xin đa tạ chính phủ và người dân Singapore! Dĩ nhiên tất cả
cựu thuyền nhân Việt Nam bây giờ định cư trên nhiều đệ tam quốc gia khác nhau đều
luôn luôn tri ân các nước trong vùng Đông Nam Á đã cho họ tạm trú trên hành
trình đi tìm tự do trong quá khứ.
VỀ PHÍA BẾN BỜ MỚI.
Sau 5 tháng ở trại tỵ nạn Singapore, chúng tôi đáp máy bay đến đất nước tái định
cư của mình. Giã từ Singapore, trạm dừng chân đầu tiên của chúng tôi trên đường
đi tìm tự do, chúng tôi khởi hành về phía bến bờ mới, Philadelphia, tiểu bang
Pennsylvania. Chúng tôi đặt chân lên đất Mỹ ngày 20-10-1981, qua phi cảng nhập
cảnh San Francisco, như vậy Philadelphia ngày hôm sau. Xin đa tạ nước Mỹ đã cho
chúng tôi cơ hội xây dựng lại cuộc sống trong một xã hội mới mà chúng tôi yêu
thích.
Chúng tôi đặt chân lên đất Mỹ ngày 20-10-1981 qua phi cảng
nhập cảnh San Francisco, mang theo những túi nhỏ này là gia tài
độc nhất, với quyết tâm tạo dựng lại cuộc đời trên vùng đất mới.
(Phi Cảng Quốc Tế San Francisco ngày 20-10-1981)
Tháng Ba 1982
Có sửa đổi tháng 5, 2014
Hà Kỳ Lam
• GIA ĐÌNH TÔI 7 NGƯỜI RA ĐI TỪ VIỆT NAM NGÀY
9-5-1981 TRÊN MỘT GHE NHỎ CÙNG VỚI 47 NGƯỜI
• THUYỀN
CHÚNG TÔI ĐƯỢC MỘT THƯƠNG THUYỀN CỨU NGÀY 13-5-1981
• NHỮNG
THUYỀN NHÂN ĐƯỢC CỨU ĐẾN TRẠI TỴ NẠN SINGAPORE NGÀY
14-5-1981
• GIA
ĐÌNH TÔI ĐẾN HOA KỲ NGÀY 20-10-1981