Một
lần nữa, ngày 30 tháng Tư lại sắp về, gợi nhớ biến cố đau thương của Việt Nam
33 năm trước. Dịp này, chúng tôi xin cùng quý bạn tưởng nhớ những người lính
Việt Nam Cộng Hòa trong giờ thứ 25 của cuộc chiến năm xưa qua truyện ngắn dưới
đây.
NÚI
VẪN XANH
Truyện
của HÀ KỲ LAM
CẢ
BỐN TAY súng của toán thám sát Biệt Cách Nhảy Dù vẫn bố trí lưng chừng đồi theo
hình cánh cung để bảo vệ người toán trưởng và hiệu thính viên đằng sau lưng họ
trên đỉnh đồi từ nãy giờ đang hướng mặt về phía đối diện để quan sát đám người
lố nhố dưới kia, trong thung lũng trãi dài hai bên con suối ngoằn ngoèo như con
rắn bạc lấp lánh dưới ánh nắng ban trưa chói chan của một ngày đẹp trời tháng
tư. Hết quan sát những người xê dịch dưới thung lũng lại cúi nhìn đồng hồ,
người trưởng toán có vẻ nôn nóng.
- Ít
nhất là một tiểu đoàn. Có thể là K 25B công binh như tin tình báo cho hay. Mẹ
kiếp, máy bay lên chậm thế này để chúng di chuyển hết thì hoài công.
-
Không sao đâu, ông thầy. Bọn nầy có vẻ còn ở đây lâu đấy, vì nhiều tên còn đang
tắm, thậm chí giặt giũ nữa kia.
Bỗng hiệu thính viên Thịnh
đưa ống liên hợp cho thiếu úy Tuấn:
- Thằng L 19 đang lên vùng
và cần gặp ông thầy.
Tuấn bóp chặt ống liên hợp,
đưa lên miệng:
- Họa Mi đây Thạch Ðộ, trả
lời.
Giọng miền Nam của viên phi
công vang lên trong ống nghe:
-
Thạch Ðộ đây Họa Mi, bạn điều chỉnh hướng bay khi bắt đầu thấy tôi để xác định
vị trí bạn, trả lời.
-
Họa Mi đây Thạch Ðộ. Tình thế khẩn cấp lắm, tôi sẽ nháy mắt để anh có thể thấy
tôi nhanh hơn, trả lời.
- Tôi nhận bạn năm trên năm,
và trực máy.
Tuấn đưa tay vẫy Tâm, một
toán viên dưới lưng chừng đồi đang ngoái đầu nhìn lên anh. Khi người lính vừa
bò đến gần Tuấn khẻ ra lệnh:
-
Mày ra chỗ lúc nãy chờ, khi thấy thằng L 19 thì chiếu kiếng cho nó thấy mình.
Lần
hành quân nào cũng vậy, Tuấn chỉ giao công tác chỉ điểm này cho Tâm. Không hẳn
vì anh chàng làm công việc này giỏi hơn các toán viên khác - Tuấn có bao giờ
sát hạch môn này cho cả toán đâu mà chấm điểm được - nhưng tình cờ một lần giao
công việc này cho anh lính và thấy được việc nên Tuấn chẳng muốn "thay đổi
nhân sự".
Gài
khẩu M 16 vào khoen leo núi móc gần vai bên phải, Tâm bò về phía mõm đồi cỏ
tranh cách xa bên trái của Tuấn khoảng một trăm thước. Lúc mọi người vừa thoáng
thấy chiếc máy bay quan sát màu trắng ở nẽo xa thì Tâm cũng vừa quỳ tại bải cỏ
tranh ngập nắng, rút từ túi áo trên cái kiếng hình chữ nhật chỉ hơi lớn hơn
chiếc hộp quẹt Zippo và nâng lên ngang mắt, nhìn từ phía sau kiếng qua lổ nhắm
ở trung tâm kiếng để hướng cái chấm đỏ của tia mặt trời nằm thẳng hàng với phi
cơ đang bay. Ðoạn anh ta khẻ lắc nhẹ để tạo sự nhấp nháy. Bỗng một tràng tiếng
nổ dòn vang lên, cùng lúc Tâm bật ngữa ra sau rồi nằm bất động. Cả toán biết
điều không lành đã đến với người đồng đội, ghìm súng ở tư thế đối đầu với mọi
hướng. Thịnh nằm cạnh Tuấn khẻ nói:
- Ð.M. tụi nó ở đầy cả rừng
rồi!
Tuấn
chưa kịp đáp lời người lính mang máy truyền tin thì những quả đạn sơn pháo 75
ly, đạn cối 82 ly, và những loạt AK 47 thi nhau đổ về phía toán đang bố trí
trên đồi. Cành cây, đất đá bắn tung tóe vào thầy trò Tuấn. Không cần lệnh của
người toán trưởng, mỗi toán viên nằm thủ tại chỗ. Họ biết trong tình thế loại
này tháo chạy hoặc co cụm lại với nhau chỉ tổ lãnh thêm thiệt hại. Tuấn nhìn
qua các toán viên và thấy tất cả còn "nguyên". Thịnh trao ống liên
hợp cho Tuấn:
- L 19 gọi.
Tuấn chụp máy :
- Họa Mi đây Thạch Ðộ.
-
Ðây Họa Mi, tôi vẫn chưa thấy bạn nhưng thấy nhiều cột khói và nhiều lằn chớp
dưới đó.
- Ðang bị ném đá. Tôi đang ở
hướng ba giờ của anh.
Sau
hai lần "bẻ góc" nữa, chiếc máy bay quan sát từ xa gióng chính hướng
ngọn đồi lướt tới. Tuấn cho viên phi công biết đang bay đúng hướng và sẽ báo
cho anh ta biết khi nào máy bay vừa ngang qua đỉnh đồi. Súng địch vẫn nổ dòn,
mưa đạn vẫn tới tấp đổ về ngọn đồi, khiến công việc điều không của anh càng khó
khăn. Nằm dài trên mặt đồi để tránh tầm đạn đi, bên chiếc máy truyền tin, tay
cầm ống nói áp sát một bên tai, mắt vẫn ngước lên dõi theo chiếc L 19 trên
không đang tiến gần vị trí mình, rồi ngay lúc nó vừa ở trên đầu, Tuấn bóp ống
liên hợp, nói như reo:
- Họa Mi, anh đang ở ngay
trên đầu tôi, trả lời!
- Thạch độ đây Họa Mi. Nhận
bạn rõ năm. Rất tốt.
- Họa Mi đây Thạch Ðộ. Cứ
trực máy, tôi sẽ có việc cho anh.
Tuấn
vừa trao ống liên hợp cho Thịnh tiếp tục liên lạc với máy bay để bò gần về phía
bìa rừng quan sát trãng cỏ tranh, thì thình lình tiếng súng im bặt. Mấy giây
sau cả rừng vang tiếng thét "xung phong". Rồi trước mặt Tuấn, từ
hướng mõm đồi cỏ tranh nơi Tâm quì chỉ điểm cho phi cơ vừa rồi, và từ hướng
trước mặt toán lố nhố người cứ ùn ùn tiến tới. Hóa ra đợt bắn phá vừa rồi là
trò đánh phủ đầu để bộ binh tiến sát. Bóng dáng những bộ quân phục kaki màu lá
cây, nón tai bèo cứ xông lên bất kể những tràng đạn M 16 đốn ngã từng đợt
người. Khoảng một trung đội địch tiến hàng ngang đã lên tới đỉnh đồi, cách bọn
anh không đến mười thước, với tiểu liên AK kẹp nách bắn xối xả. Một tên địch
gần Tuấn hơn ria một tràng đạn về phía anh, nhưng, như một phép lạ, anh vô sự.
Thịnh nhanh tay siết cò súng hạ hắn đo đất. Nhiều tràng M 16 đáp lễ ngăn được
chốc lát sự "tiếp cận" kia. Lúc này hai chiếc A 37 cũng vừa xuất hiện
và bay cao hơn chiếc L 19. Trung sĩ Hiến báo cáo hai sự kiện dồn dập: Châu bị
nguyên một tràng đạn AK vào ngực, chết ngay trên đồi, và địch bây giờ tràn lên
đông hơn. Tuấn ra lệnh cả toán rút xuống triền dốc về phía thung lũng. Anh biết
thung lũng đang có một đơn vị lớn của địch. Anh chỉ muốn bỏ ngọn đồi, men theo
triền dốc, rồi xin phi pháo đánh ngay trên đồi để toán tiện bôn tẩu. Nhưng di
chuyển một đoạn ngắn thì nhiều tràng AK từ dưới chân đồi khạc đạn xối xả về
phía bọn anh. Không xong. Tứ bề thọ địch. Chỉ vỏn vẹn bốn tay súng mà tử thủ
với biển người hay liều mạng phá vòng vây trùng trùng của địch thì phỏng ích
lợi gì? Tuấn bấm ống liên hợp:
- Họa Mi đây Thạch độ.
- Họa Mi nghe. Bạn cho biết
cần gì?
- Anh cho đánh ngay trên đầu
chúng tôi.
- Không được! Bạn xác nhận
lại, đánh ở đâu?
-
Tôi, thẩm quyền Thạch Ðộ nhắc lại đánh ngay trên đầu chúng tôi và bất cứ chỗ
nào có người. Ðịch tràn ngập rồi, không chần chờ gì nữa. Ðánh ngay đi. Dứt!
Tuấn
trả máy cho Thịnh trước vẻ mặt hốt hoảng của anh này. Không có thì giờ và cũng
không cần giải thích về quyết định của mình với người lính truyền tin của toán,
Tuấn nép sau một thân cây to để tránh các tràng tiểu liên AK từ dưới chân đồi
vẫn không ngừng quạt lên. Trên đỉnh đồi bây giờ đã lố nhố người của đối phương.
Bốn người thám sát Biệt Cách Dù chỉ còn biết tử thủ: Hiến và Sắc chĩa súng về
hướng đỉnh đồi, còn Tuấn và Thịnh quay súng xuống chân đồi. Cả bốn tay súng
chiến đấu trong một ô vuông mỗi cạnh khoảng mười thước. Họ bắn dè xẽn từng ba
phát một nhưng rất hiệu quả, và nhờ vậy đã làm chậm bước tiến của địch. Trong
khi đó chiếc L 19 vẫn chưa chịu thi hành điều Tuấn yêu cầu, cứ bay lòng vòng
bên trên. Anh "thông cảm" cho người phi công, nhưng không khỏi tức
giận vì cảnh dầu sôi lửa bỏng của mình. Anh ta phải xin lệnh từ Trung Tâm Không
Trợ về điều yêu cầu "điên khùng" kia, và chắc đang chờ trả lời. Tuấn
cũng lấy làm lạ lần này không có biệt đội trưởng hay một sĩ quan của Liên Ðoàn
bay L 19 hay trực thăng C&C như mọi lần. Thình lình mọi người cùng nghe rõ
âm thanh "chéo-éo-éo ... đoành!". Một cột khói trắng bốc cao và cuồn
cuộn tỏa ra như một đám mây, vươn lên khỏi tàng cây rừng ngay đỉnh đồi mà toán
thám sát vừa rời bỏ. Tuấn biết viên phi công quan sát vừa bắn một trái khói chỉ
điểm mục tiêu oanh kích. Ðiều yêu cầu của anh đang được đáp ứng. Tuấn vẫn nếp
sau thân cây. Rồi anh bỗng thấy hành động nấp sau thân cây rõ lẩm cẩm vì biết
bom sẽ rơi hướng nào. Nhưng đành phó mặc cho may rũi, anh cứ ngồi bên gốc cây.
Tuấn tưởng chừng như anh đang gồng mình lại, các bắp thịt toàn thân như rắn
lại, chờ đợi sấm sét giết người từ trời cao ... Chiếc oanh tạc cơ thứ nhất đâm
bổ xuống ngay trên đầu Tuấn, rồi hẳn nhiên đã đạt tới một độ thấp vừa đủ, con
chim sắt ấy lại vút lên cao vài giây trước khi hai trái bom từ dưới cánh đâm
thẳng xuống quả đồi của anh. Tuấn không dám tiếp tục ngẩng nhìn lên trời. Anh
nằm cúi mặt xuống, thân chịu trên hai cùi chỏ để tránh áp ngực với mặt đất. Anh
thấy vài con kiến ung dung bò trên nền lá khô. Thốt nhiên Tuấn cảm nhận được
cái mong manh của thân xác mình lúc này - khác gì những cái kiến kia! Chỉ có
mỗi một khác biệt là anh đau khổ chờ đón cái chết chóc, cái hủy diệt, còn chúng
thì không hay biết gì cả, vẫn thản nhiên, vẫn ung dung cho đến khi nào cái chết
xảy ra là xong, không còn cảm giác nữa. Chúng hạnh phúc hơn anh trong lúc này.
Từng khuôn mặt thân yêu trong gia đình diễn hành nhanh qua trí anh: mẹ anh, các
em, và chị. Rồi anh nghĩ đến Trinh thật xa xăm và cũng thật gần. Anh có còn trở
lại cổng trường Trưng Vương nữa không? Rồi bên tai anh nghe mơ hồ giọng một ca
sĩ quen thuộc với "em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại. Xin trả lời mai
mốt anh về..." Tuấn lại nghĩ đến tập thể tuổi trẻ Sài Gòn: không có anh
trong đó! Và trong cái khoảnh khắc chờ đón một sự hủy diệt khủng khiếp sắp
giáng xuống mọi người, một khoảnh khắc rất ngắn nhưng cũng rất thiên thu, giác
quan anh đón nhận cả một trình tự ngoại vật lướt qua chóng vánh: âm thanh động
cơ phản lực gầm thét qua đầu, tiếng bom xé gió, hàng loạt tia chớp lóe lên, từng
tràng tiếng nổ kinh hồn, và mă봠đất rung chuyển. Tuấn
bị nhiều nguồn lực từ mọi hướng đẩy bật ngữa rồi xô tới trước hoặc xoay vòng;
anh có cảm giác ngực bị ai đấm một quả rõ mạnh, tức đến khó thở. Ðất, sỏi ùn
lên hắt vào người anh. Khói đen tỏa ra chung quanh, không khí khét lẹt mùi
thuốc nổ. Tuấn biết một trái bom đã đáp cách anh không xa, đào một hố rõ to và
làm dạt một mớ cây nhỏ bên trái anh, tung tóe đất lên quần áo anh. Riêng thân
cây to vẫn đứng vững và hiển nhiên đã hứng hết những mãnh bom, đất đá và sức ép
cho anh. Anh sờ khắp người để thấy mình vô sự. Trái bom khác rơi trên đỉnh đồi
đã bật gốc một cây cổ thụ, tạo nên một âm thanh phụ nghe đánh ầm và làm trống
hẳn một khoảng rừng.
Tuấn
bò qua những cành cây gãy đổ ngổn ngang, tìm Thịnh nhưng không thấy hắn đâu cả.
Trong mọi tình huống anh phải có máy bên cạnh mình. Nhưng chiếc A 37 lại đang
đâm bổ xuống đầu Tuấn một lần nữa. Anh vội ngồi nấp sau một thân cây. Có lẽ đây
là chiếc thứ hai, đang theo gót phi tuần trưởng của nó vừa rồi. Dù sao thì anh
sắp hứng chịu một "trận đòn thù" nữa. Lại "ầm! ầm!" rồi mấy
tiếng "ầm" phụ nổi lên. Tuấn lại bị lộn nhào một lần nữa, và anh giật
bắn người khi thấy một cây cổ thụ vừa bật gốc ngã sóng soài cách anh không đầy
một thước. Giá mà nó phang ngay anh thì còn gì nữa! Ngọn đồi bỗng "đổi
mới"; cây ngã la liệt. Tuấn vẫn tìm Thịnh, tìm trung sĩ Hiến - người toán
phó - và Sắc. Toán may ra thì còn được bốn mạng, kể cả anh. Tâm và Châu đã ra
đi rồi! Nhưng sao thế này: im phăng phắc - địch đâu rồi, và ta đâu rồi? Bỗng lá
cây lay động sột soạt sau lưng. Tuấn quay phắt lại, khẩu M 18 dưới nách chỉ
thẳng vào bóng người từ trong bụi rậm vừa đứng lên.
- Sắc đây ông thầy.
Tuấn thở phào một cách dễ
chịu. Anh khẻ nói:
- Mày không sao chứ?
Anh
lính khẻ lắc đầu thay lời đáp. Tuấn biết mình vừa hỏi một câu không cần trả
lời; nó chỉ có nghĩa của một câu xác định, "à, may quá còn có mày."
Anh đang lo cho số phận của các toán viên.
- Trung sĩ Hiến và Thịnh có
sao không?
Sắc vừa nói vừa đưa tay chỉ
về hướng hơi chếch đỉnh đồi:
-
Ông Hiến bị thương nằm ở đằng kia. Ổng hỏi thăm ông thầy, và bảo em đi tìm.
Tuấn
muốn đến gặp ngay trung sĩ Hiến xem tình trạng thương tích của ông ta ra sao,
nhưng anh phải tìm Thịnh trước vì máy móc truyền tin là linh hồn của toán. Hai
chiếc phản lực bây giờ đang ở tít trên mây; tiếng động cơ của chúng nghe nghe
rất xa và đứt đoạn. Chiếc L 19 vẫn quầng trên đầu hai người. Có lẽ viên phi
công đang gọi Thạch Ðộ khàn cả tiếng, Tuấn nghĩ thế. Quái, Thịnh biến đâu mất
với chiếc máy truyền tin. Tuấn vẫn nhớ hắn chạy theo sau anh và nấp gần đây
trước khi bom rơi. Tuấn bỗng nẩy ra ý nghĩ bới tìm trong mớ cây cối đổ ngổn
ngang ngay cạnh hố bom. Và trong lúc hai thầy trò đang len lõi bò vào từng đống
cây lá nằm bên trên hoặc bị vùi lấp dưới lớp đất mới thì phía trảng cỏ tranh
một tiếng nổ phát ra và một cột khói trắng bốc cao. Anh biết viên phi công máy
bay quan sát vừa bắn một trái chỉ điểm cho phản lực đánh bom xuống nơi anh ta
vừa thấy địch ẩn núp đâu đó.
Trong
tiếng rít của hai chiếc A 37 trên đầu, tiếng rền và chấn động liên hồi của bom,
Tuấn chợt nghe giọng gọi đầy khích động của Sắc:
- Ông thầy ơi.
Tuấn
nguớc nhìn theo ngón tay trỏ của người lính và thấy cách họ vài thước khúc cần
ăng-ten của chiếc máy PRC 25 nhú ra khỏi mớ đất vàng tươi mới tinh khôi dưới
mấy cành cây phủ lên. Anh lặng người mấy giây, cảm thấy đôi chân như không đứng
vững nỗi. Giọng nói Tuấn nghe yếu ớt qua hơi thở:
- Moi đất ra.
Hai
người hì hục lôi các cành cây bỏ sang một bên, dùng tay bới mớ đất bột lên.
Chiếc máy truyền tin bị thủng, móp méo, vỡ nhiều chỗ, từ từ lộ ra, rồi màu áo
rằn ri bày ra, dính đất và máu. Tuấn và Sắc cùng nâng người Thịnh đang nằm sấp
lên. Xông pha trận mạc đã nhiều, đã trông thấy bao nhiêu xác chết của cả đôi
bên, nhưng anh phải nhận chưa bao giờ thấy một xác người như thế này, nói chi
xác ấy là đồng đội, là thuộc cấp của mình. Cả người Thịnh từ bụng lên vai bị
mất tùng mãng thị lớn, và xương vai một bên bị gãy. Nhưng cái chân, ôi cái chân
trái, anh không biết phải nói thế nào ... đứt đến trên đầu gối, chỉ còn dính
tòn teng với toàn thân bằng một mãnh da rộng bằng một bàn tay, và thịt chỗ hai
đầu bị cắt lìa trở nên xám đen giống như vừa bị nướng trên lửa!
Sắc
mở thử máy truyền tin. Chỉ là một cục kim khí im thin thít vô dụng. Chợt nhớ
tới trung sĩ Hiến, hai người thận trọng di chuyển, và Sắc dẫn đường ngược lên
đồi. Họ bước qua nhiều xác lính Bắc Việt nằm đủ vị thế - nghiêng, ngữa, sấp,
hay cong queo. Tuấn cúi xuống bên người toán phó, xem xét vết thương ở bụng. Có
vẻ một mãnh bom đã cứa một đường dài và sâu trước bụng. Anh thử xốc người
thương binh lên nhưng anh ta nhăn nhó một cách đau đớn:
- Ối, ông thầy để tôi nằm
đi.
-
Trước khi bom nổ anh đã rút xuống triền dốc với toán mà sao lại ở đây?
Trên
gương mặt tái xanh vì mất nhiều máu của Hiến Tuấn thấy một sự cố gắng dùng sức
mới bật ra thành tiếng:
-
Tôi chạy lên để.. kéo xác thằng Châu xuống.. kẻo bom dần nát mất nhưng..
Hiến
ngưng nói, vẻ mệt nhọc, đưa lưỡi liếm quanh vành môi tái nhợt và khô khốc. Sắc
mở nắp bi-đông, khẻ nâng đầu anh lên và kề miệng bình nước vào môi. Tuấn nhắc:
- Cho uống ít thôi để giữ
cho máu bớt chảy.
Trong
khi tháo cuộn băng cá nhân để băng cho trung sĩ Hiến, Tuấn vẫn thận trọng quan
sát chung quanh. Anh thấy nhiều xác chết đối phương rãi rác khắp nơi. Xác Châu
nằm cách trung sĩ Hiến khoảng năm thước, mắt còn nhìn lên trừng trừng. Anh rón
rén bò đến bên người toán viên vẫn hay di chuyển hàng đầu trong các cuộc xâm
nhập của toán, đoạn từ từ vuốt cho đôi mắt nhắm lại. Rừng im phăng phắt. Có lẽ
chúng chỉ di tản những kẻ bị thương. Những người nằm kia đều "câm
nín". Sau khi đảo lại mấy vòng để bắn rocket và đại liên mười hai ly bảy
xuống một điểm mới dưới thung lũng do phi cơ quan sát chỉ điểm, hai chiếc phản
lực đã rời vùng. Chiếc L 19 vẫn còn lượn trên không phận hành quân. Tuấn vừa
quay sang bảo Sắc lấy chiếc pa-nô tìm cách trãi để ra hiệu cho máy bay biết
mình có mặt tại chỗ thì bỗng rừng núi lại rền vang từng tràng nổ. Tuấn nói:
- Mười hai ly bảy.
Chiếc
L 19 vụt cất cao lên và mất hút vào khoảng không. Tuấn đề nghị khiêng trung sĩ
Hiến men theo triền dốc về hướng Bắc cho xa vùng giao tranh được bao nhiêu càng
tốt bấy nhiêu. Anh đoán địch sẽ chiếm lại đồi này. Bỗng dưng trung sĩ Hiến
quàng một tay ôm chặt chân Tuấn và thều thào nói:
- Ông
thầy đi đâu anh em cũng đi theo ông thầy. Bây giờ ông thầy bỏ
anh em ...
Tuấn
định thốt một lời an ũi, hay trấn an nhưng bàn tay trung sĩ Hiến đã buông rơi
khỏi cổ chân anh, đầu ngoẹo sang một bên, mắt nhắm nghiền như đi vào một giấc
ngủ. Anh lay mạnh vai Hiến:
- Anh Hiến! anh Hiến!
Chỉ
có tiếng gió ngàn xào xạt đáp lại. Rừng chiều hửng nắng ở những đồi xa. Sắc
bỗng vỗ vào cạnh sườn Tuấn và chỉ về hướng trãng cỏ tranh. Lố nhố một đoàn quân
dàn hàng ngang đang tiến lên đồi của anh. Họ vận kaki xanh, nón tai bèo, súng
kẹp nách, vai đeo ba lô. Hai thầy trò vội lom khom chạy về phía triền dốc, rồi
di chuyển về hướng Bắc men theo sườn đồi.
Ði
được một giờ, vượt qua vài con suối, mấy quả đồi thấp, Tuấn dừng lại xem bản
đồ, đoạn bảo Sắc đổi hướng, đi về đông theo phương giác 1800. Năm giờ chiều.
Ðêm rừng bao giờ cũng đến nhanh. Trong ánh sáng nhá nhem hai thầy trò kẻ trước
người sau cứ tiếp tục luồn lách qua cây lá, bụi rậm. Rồi sực nhớ phải có một độ
quan sát tối thiểu mới có thể chọn một vị trí ngủ đêm an toàn, Tuấn khẻ nói với
người toán viên đồng hành:
- Ta lên đỉnh đồi trước mặt
tìm chỗ nghỉ đêm.
Mới
hơn bốn giờ sáng Tuấn đã thức giấc. Bao giờ người lính hành quân cũng thức giấc
sớm, vì giấc ngủ đến vào khoảng bảy giờ chiều thay vì một hai giờ sáng ở những "đêm
đô thị". Trời còn tối mịt. Anh nằm nghe ngóng một lát, đoạn đưa tay sờ
lưng võng của Sắc. Một giọng nói rất khẻ:
- Ông thầy thức rồi hả?
Rồi
ánh sáng nhờ nhờ đổi dần sang trắng đục. Rồi mọi vật bỗng hiện rõ trước một
ngày đang lên. Có vài tiếng chim hót. Có vài tiếng hú đâu đó bên một ngọn đồi
khác, rồi không biết bao nhiêu tiếng hú cất lên vang cả một vùng đồi núi, cơ hồ
như tiếng hú này lây sang tiếng hú khác, và cứ thế truyền đi khắp nơi. Tuấn đã
quá quen với các tấu khúc bình minh của rừng núi. Hai người cuốn võng bỏ vào ba
lô, dọn dẹp "sạch sẽ" chỗ đất dưới chân, lùa mớ lá cây chung quanh
phủ lên, không để lại một dấu vết nào có thể tố cáo sự hiện diện của hai thầy
trò. Sắc mở một bịch gạo sấy, rót nước từ bi-đông vào bao làm một bửa ăn sáng.
Tuấn chẳng thấy đói, tuy suốt ngày hôm qua anh chỉ ăn có một gói cơm sấy vào
buổi sáng. Tâm trí anh quay về với những gì đã xãy ra. Bị lộ, trận oanh kích,
những xác đồng đội bị bỏ lại, và bây giờ hai nguời lạc lỏng giữa rừng không máy
móc liên lạc để biệt đội biết tung tích. Anh có trách nhiệm gì với những thuộc
cấp vừa ra đi vĩnh viễn kia? "Ông thầy đi đâu anh em cũng theo ông thầy.
Bây giờ ông thầy bỏ anh em ..." Tuấn thấy miệng đắng khi nuốt nước bọt.
Anh thèm một điếu thuốc, và một ly cà phê. Anh nhìn Sắc đang ngồi ăn, nhìn
xuống khẩu M 18 gác trên đùi mình, ngước nhìn bầu trời xanh biếc ban mai. Sắc
vụt hỏi:
- Bây giờ tính sao, ông
thầy?
-
Không có máy móc, không biết ở nhà thế nào, còn ở nhà cũng chẳng biết mình sống
chết ra sao. Cứ tiếp tục đi về hướng Ðông, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, càng
gần nhà càng tốt. Có trực thăng thì trãi pa-nô cho nó thấy mình. Thế nào biệt
đội cũng cho máy bay đi tìm.
-
Cha con nó bị thiệt hại nặng. Hai chiếc A 37 đánh hiệu quả thật. Sườn đồi bên
kia và trãng cỏ tranh lãnh trọn mấy trái bom. Em thấy chung quanh chỗ ông Hiến
nằm ít nhất cũng cả chục xác nằm la liệt. Ông thầy có để ý không? Ðợt bom đầu
tiên chận đứng ngay cuộc tấn công. Em nghĩ có lẽ chúng kêu phòng không đến tiếp
cứu sau này, vì suốt trong khi oanh kích đâu có khẩu mười hai ly bảy nào hoạt
động đâu.
Tuấn
đồng ý với phần lớn những lập luận của Sắc, nhưng anh chẳng thấy hứng thú bàn
luận về chiến trận vừa qua. Tỷ số tử vong của chiến trường và tỷ số tử vong của
lòng mình, cái nào làm nên chiến thắng? Ðợi cho người lính ăn xong và đào đất
lấp mọi dấu vết, Tuấn đề nghị lên đường.
Sang
đến ngày thứ ba hai người vẫn tiếp tục băng rừng, ngày đi đêm nghỉ. Còn khoảng
hai chục cây số đường chim bay nữa mới về đến bộ chỉ huy của Liên Ðoàn. Cả hai
đều thấy ngao ngán. Hai mươi cây số đường chim bay, điều đó có nghĩa là bốn,
năm mươi cây số đường núi, mà tốc độ di chuyển băng rừng - chứ không phải theo
theo đường mòn - có nhanh lắm cũng chỉ đạt tới bảy cây số một ngày.
Hai
mươi cây số đường chim bay, điều đó có nghĩa là bốn, năm mươi cây số đường
núi
mà tốc độ di chuyển băng rừng có nhanh lắm cũng chỉ đạt tới 7 cây số một ngày.
Nhưng
điều bất ổn trong lòng họ không phải đường về dịu vợi, đầy đe dọa, bất trắc,
lương thực cạn. Cái bất ổn là không trung vắng lặn. Từ cái buổi sáng đầu tiên
sau khi bỏ ngọn đồi và đồng đội ở lại anh và Sắc không hề thấy thấp thoáng, dù
xa, bóng dáng một chiếc máy bay. Lạ thật. Không một chiếc trực thăng, không một
chiếc L 19, không một chiếc vận tãi, không một chiếc oanh tạc cơ phản lực, thậm
chí không một chiếc máy bay dân sự, không có gì ráo trên bầu trời quang đảng.
Chưa bao giờ như thế, ít ra từ ngày Tuấn vào lính; chưa bao giờ có một ngày
không có một hoạt động nào của không quân. Anh ngồi nghỉ mệt trên một ngọn đồi,
tựa lưng vào một thân cây, dựng súng bên cạnh. Sắc ngồi xếp bằng trên mặt đất,
cạnh Tuấn. Người lính cảm thấy bồn chồn khi nhìn vẻ tư lự của người chỉ huy.
Anh ta không dám hỏi bất cứ điều gì lúc này. Tại sao bầu trời vắng lặng thế
này? Sao không nghe một tiếng đại bác, một tiếng bom nổ xa xa? và vân vân. Cuối
cùng, không nén nỗi những băn khoăn trong lòng, Sắc lên tiếng:
- Em
thật không hiểu nổi. Chắc có chuyện gì đây, chứ không thể nào Liên Ðoàn đem con
bỏ chợ như thế này.
-
Tao cũng chịu thua, không hiểu nổi. Ðành rằng mình không có phương tiện liên
lạc, không biết tình hình ở nhà hay các đơn vị bạn ra sao, nhưng Liên Ðoàn vẫn
có thể cho trực thăng đi tìm. Ðằng này bặt vô âm tín. Mà cái điều lạ lùng nhất
là không có bóng dáng một chiếc máy bay nào cả, chứ đừng nói trực thăng C&C
của biệt đội. Tao cũng nghĩ như mày: chắc có biến cố gì đây. Ðiều cần nhất bây
giờ là bằng mọi cách phải gắng về tới bộ chỉ huy Liên Ðoàn. Mầy còn mấy gói gạo
sấy?
- Dạ ba gói, và không tới
nửa chai xì dầu.
-
Tao còn năm gói. Tao sẽ đưa thêm cho mày một gói. Mỗi thằng như vậy có bốn
gói.Tao ước tính từ đây về tới Liên Ðoàn có thể mất sáu, bảy ngày nữa. Bây giờ
tao tạm ấn định kỷ luật dùng lương khô là mỗi thằng chỉ được ăn nửa gói một
ngày. Cố gắng chịu đựng như vậy thì mới đủ sức mà lết về tới nhà. Tao nói sáu,
bảy ngày là trong giả thuyết di chuyển vô sự, không đụng địch.
Ðiều
Tuấn nói sau cùng nhắc lại sự bất an của hai người. Trong ba ngày qua thầy trò
anh đã né tránh mấy đoàn quân dài dằng dặc. Trong đời nhảy toán của mình Tuấn
chưa bao giờ thấy địch chuyển quân rầm rộ như thế. Một điều lạ lùng nữa là
những đoàn người cứ nườm nượp hướng về Ðông, cùng chiều với anh và Sắc, chỉ
khác là họ dùng đường mòn. Tuấn đứng dậy tháo ba lô đặt xuống đất, lôi một gói
gạo sấy đưa cho Sắc, đoạn cả hai lên đường.
*
* *
Tuấn
nhìn đồng hồ tay: ba giờ chiều. Tuy gần cuối ngày, cái nắng như nung như đốt
của tiết trời miền Nam đầu tháng Năm vẫn chưa dịu đi chút nào. Ðưa bi đông lên
miệng tu một ngụm nước xong, anh xoay xoay tấm bản đồ, nhìn thật kỷ những vòng
cao độ nâu lẫn xanh nhạt, rồi ngước nhìn địa thế chung quanh. Cho chắc chắn,
anh mở cái địa bàn, xoay cho hướng bắc của bản đồ trùng với hướng mũi tên của
địa bàn, đoạn anh đối chiếu chi tiết bản đồ với địa thế một lần nữa. Anh hân
hoan nói với Sắc:
- Tới vùng Tân Uyên rồi!
- Chắc không, ông thầy?
- Bảo đảm!
Hai
thầy trò bỗng thấy khỏe khoắn trong người, mặc dù mới trước đó mấy phút họ cảm
thấy gần kiệt sức sau sáu ngày băng rừng lội suối với những cơn đói triền miên
làm bủn rủn chân tay, hoa cả mắt. Nhìn lại đoạn đường dài gian nan, hiểm nguy,
Tuấn thấy thương hại Sắc. Hắn ta to con, ăn khỏe, nên trong mấy ngày qua quả
thật là một chuỗi ngày khốn khổ "tận cùng bằng số" đối với hắn. Tuấn
bảo:
-
Bây giờ mày có thể ăn nốt nửa bịch gạo sấy cuối cùng cho đỡ đói. Còn vài cây số
nữa là tới chi khu rồi, tha hồ mà gọi mì, phở, hủ tiếu...
- Lạ
thật, không thấy thèm nữa ông thầy ơi. Thôi, mình đi lẹ tới chi khu đặng báo
Liên Ðoàn đón.
Hai
người lội qua một con suối, tiếp tục đi về Ðông. Họ bước đi vững vàng hơn những
ngày còn lếch thếch giữa rừng. Sau khoảng một tiếng đồng hồ di chuyển, nhìn
xuyên qua một khoảng rừng thưa, hai người thoáng thấy mấy nóc nhà lợp tôn của
chi khu Tân Uyên ở tít đằng xa, bên kia sông. Cùng với bước tiến của Tuấn và
Sắc, mọi vật rõ dần. Rồi lá cờ phấp phới trên trụ cờ tuy vẫn còn mờ mờ trong
quãng xa nhưng đã đủ để thấy không phải lá cờ vàng ba sọc đỏ quen thuộc. Hai
người không tin nổi mắt mình: làm thế nào mà lá cờ nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao
ở giữa lại ngang nhiên tung bay nơi này. Thầy trò nhìn nhau, nhưng mỗi người
theo đuỗi những suy nghĩ riêng. Sắc bỗng vỗ vai Tuấn chỉ về phía con sông trước
mặt, vẫn ở nẽo xa và chen vào giữa khoảng cách từ chỗ họ đến chi khu: vài chiếc
ghe cũng treo loại cờ đó. Nhìn qua mấy mái nhà tranh gần bờ sông cũng lại thấy
những lá cờ đó. Sắc khẻ nói:
-
Chắc chúng chiếm vùng Tân Uyên rồi. Không khéo Biên Hòa cũng di tản chiến thuật
nốt.
Tuấn nói, để tự trấn an hơn
là làm yên lòng người thuộc cấp:
- Không thể có chuyện đó
được.
Chợt
nhìn bên trái, qua một khoảng rừng chồi lưa thưa, thấy có mấy người nông dân
đang cuốc đất trong một thữa ruộng, anh chợt nẩy ra ý nghĩ đến tiếp xúc họ để
dò hỏi tình hình. Tiến sát mãnh ruộng, để Sắc ngồi lại trong một bụi cây yểm
trợ, Tuấn cầm khẩu M 18 trong tay phải, bước đến bên bốn người đang làm việc
đồng áng. Họ ngừng tay, nhìn anh chằm chặp. Tuấn hỏi người lớn tuổi nhất trong
nhóm người, một ông già khoảng năm mươi, xương xẩu nhưng còn nhanh nhẹn:
- Thưa Bác, hình như chi khu
đã rút đi rồi, phải không ạ?
Gương
mặt thoáng bối rối, ông nhìn Tuấn từ đầu đến chân rồi nói rất khẻ:
- Chú là biệt kích 81 trong
rừng mới ra hả?
- Dạ phải.
-
Ông Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng từ năm, sáu ngày nay rồi, từ hôm ba mươi
tháng Tư. Ai nấy đều buông súng trở về nhà hết. Chính phủ Cách Mạng chẳng làm
khó dễ gì cả. Anh em còn bao nhiêu người?
Tuấn
chẳng còn nghe rõ ông già hỏi gì nữa. Anh cúi đầu rất lâu. Giòng ý thức của anh
bỗng như ngừng lại - không hẳn là nó đặc quánh lại, cũng không hẳn nó trống
rổng, chỉ biết nó tuồng như không còn khả năng suy nghĩ rõ ràng, mạch lạc nữa.
Tuấn có cảm tưởng sau bao nhiêu suy đoán, thắc mắc, giờ đây được thực tế trả
lời, trí não mình bỗng thấy "no" rồi, không đòi hỏi nữa, cũng không
nhận dữ kiện nào từ ngoại giới nữa! Sắc từ trong bụi vội bước ra. Nhìn dáng
điệu của người toán trưởng anh đã đoán tình hình hẳn là rất xấu. Trong ánh mắt
ái ngại, ông cụ lặp lại cho người lính thứ hai nghe:
-
Ông Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng hôm ba mươi tháng Tư rồi. Các chú nên bỏ
súng ống đi, trở về gia đình thôi.
Ðến
lược Sắc đứng đờ người ra. Lúc ngồi trong bụi anh đã đoán tình hình phải xấu,
anh đã lờ mờ phát họa một vài viễn anh tệ hại, nhưng "xấu" như ông
già này cho biết thì thật vượt quá xa dự tưởng của anh.
Ðột nhiên Tuấn ngước lên
chào từ giã:
- Tụi cháu cám ơn Bác. Thôi,
tụi cháu về.
Tuấn
bước đi trước, và Sắc theo sau. Họ tiến về phía bờ sông. Hai người đứng nhìn
giòng sông êm ả, trong vắt một hồi lâu. Rồi Tuấn nhìn Sắc, ngập ngừng vài giây,
nói với một giọng hơi lạt đi, nhưng không kém dứt khoát:
-
Qua bên kia sông, có thể đi bộ ra đến xa lộ, từ đó đón xe về Sài Gòn. Sắc, thôi
thầy trò mình chia tay. Kể từ giờ phút này tao không còn là trưởng toán của mày
nữa. Cứ tự do về với gia đình. Tao chỉ muốn nói một điều. Trong những ngày mày
theo toán, nếu tao có làm những gì khiến mày buồn lòng, hoặc vì trách nhiệm,
hoặc vì sai lầm, tao mong mày bỏ qua cho. Cầu chúc mày thật nhiều may mắn.
Sắc
cố bậm môi để giữ cho miệng khỏi bị méo xệch. Anh ta muốn nói cả nghìn lời
nhưng không thốt được một tiếng. Cúi gầm mặt xuống một lúc như cố đè cơn xúc
động cứ chực bật ra thành tiếng nấc, cuối cùng anh ta hỏi:
- Còn ông thầy?
- Tao không thể bỏ toán còn
nằm lại trong đó.
- Nhưng họ chết hết rồi mà.
-
Chính vì vậy mà tao thấy mình không thể về nhà được. Lời nói sau cùng của trung
sĩ Hiến rất đúng.
Tuấn
ngập ngừng một lát, định nói thêm điều gì nữa nhưng lại thôi. Anh sẽ mang những
đắng cay trong lòng mình vào rừng núi. Có lẽ anh chỉ cần nói điều đó với toán
của anh vẫn còn lại trong rừng: người lính ở đâu cũng thế, chỉ là công cụ;
thắng bại không phải do họ định đoạt, và vinh quang của chiến thắng cũng không
thuộc về họ - có thuộc về họ chăng chỉ là những đau khổ của chiến bại và của hy
sinh!
Tuấn
quay lưng đi về hướng khi nãy hai thầy trò từ trong rừng ra. Trong một thoáng
cõi lòng Sắc như hứng chịu bão táp tơi bời từ mọi hướng. Tìm về xa lộ sao ngập
ngừng bước chân. Anh muốn rão bước theo sau người toán trưởng, nhưng hình ảnh
những đường phố Sài Gòn thân thuộc giờ đây không xa lắm như níu chân anh, dù
anh nghĩ nơi ấy chắc cũng đang phấp phới những lá cờ này. Rồi hình ảnh mẹ anh
hiện ra thật rõ và bao trùm cả không gian. Sắc gọi:
- Ông thầy!
Tuấn
quay lại. Sắc đứng ở thế nghiêm, đưa bàn tay phải lên ngang mày chào. Tuấn chào
đáp lễ, đoạn quay gót tiến bước. Người lính đứng nhìn theo cái dáng gầy, phong
sương xa dần rồi khuất sau ngàn lá. Anh ta lại nhìn những dãy núi xa xa ở chân
trời.
... cái dáng gầy,
phong sương xa dần rồi khuất sau ngàn lá.
Núi
ở chân trời bao giờ cũng xanh lơ. Chắc toán của anh đang nằm trên một trong
những dãy núi đó. Chắc người trưởng toán lại trèo lên nơi ấy. Sắc không sao
ngăn nổi mấy giọt nước mắt từ từ lăn xuống, quyện với mồ hôi làm lưỡi anh mặn
chát.
Hà Kỳ Lam