Lá Thư Từ Kinh Xáng
Kinh xáng Bốn Tổng ngày 5 tháng 4
năm 2006
Kính gởi anh Nghĩa Tri
Tôn,
Mấy hôm rày tui
bận dời trại ruộng anh Nghĩa à, rồi lại nhận được cái "meo" của anh, tui vừa
mừng lại vừa lo.
Mừng là có thơ của anh là biết anh đang mạnh lại; lo là lo ba
cái vụ bông điên điển đó mà.
Nguyên văn cái thơ anh viết thế này,
xin phép được chép lại hầu giải bày cùng anh vài ba cái thắc mắc mà anh muốn
biết cho rõ:
"Anh Hai
thân.
Điện thoại cho anh mà trái giờ , cả tuần tôi đủ
thứ chuyện,về nhà thì đã tối.
Tôi có đọc cuốn "Tiến trình Văn nghệ miền Nam", tác giả
Nguyễn Q. Thắng, và cuốn "Tạp bút năm Nhâm thân, 1992" của ông Vuơng Hồng Sển,
đề cập về bông điên điển.
Tôi chưa từng thấy cây điên điển, chỉ thấy bông điên điển làm dưa bán
ngoài chợ, không nhớ có ăn chưa. Nay
nhờ anh giải thích cho cái tính tò mò của tôi. Đông
Tưởng nói anh rành về loại thảo mộc nầy. Trang đầu cuốn T TR V N M N , có bài thơ :
Điên điển nở tràn sóng (*1) nước xa,
Vàng in bông thắm tóc buông xòa
Giăng câu mơ tưởng người trong mộng
Nhớ nụ cười ai thấp thoáng qua (*2)
(*1) Sách ông
Vuơng hồng Sển in là "sông." <br>
(*2) Vào mùa nước nổi ,trên sông rạch miền Tây, hoa Điên Điển - một loại hoa
đẹp và thực dụng nở vàng cả sông nước, tỏa hương ngào ngạt.
Ông VHS,trang 100, cuốn sách trên, đại ý cho là không đúng theo thực tế. Ông NQT là học giả ,có bằng :Cử nhân giáo khoa Văn chương và Triết học, Cao
học Văn chương Việt Hán, Tiến sĩ chuyên khoa Việt Hán (trước
1975)
Ông NQT gốc Trường Xuân, Quảng
Nam (theo
tiểu sử).
Cám ơn anh trước, biết anh bận dọn
nhà, mà lại làm phiền anh,cũng vì tánh tò mò,gần chết
mà chưa bỏ tánh tò mò.
Thân,
Lưu Nhơn Nghĩa
"
Bụi Điên
Điển
Thưa anh
Nghĩa,
Trời thần ơi, nhận
mấy hàng vắn tắt như vậy mà sao tui lo quá mạng. Vì như anh biết, từ hồi nào tới giờ
tui ít giải bày chuyện ruộng rẫy bằng thơ từ, nên ngồi viết cho anh mấy hàng này
mà lại là bàn về cái giống cây điên điển do một vị có bằng "tiến sĩ" viết, lại
là một việc tài đình, ngoài sức tưởng tượng anh Nghĩa à!
Cây Điên
Điển
Bông Điên
Điển
Bông Điên
Điển
|
Nhưng có điều phải nói trắng ra là
cụ Vương Hồng Sển nhận xét về bốn câu thơ mà anh nói in trong trang đầu cuốn
sách "Tiến Trình Văn Nghệ Miền Nam" là "không đúng trong thực tế", quả đúng y
chang như vậy.
Tui nói cụ Vương
Hồng Sển nói đúng vì bốn câu thơ này trước hết nó không có
hồn. Những chữ
"nở tràn sống hay sóng nước xa" không gợi được cái nét đẹp của loài bông quê mùa nàỵ Rồi "vàng in bông thắm tóc buông xòa" là
"vàng in bông thắm" tóc ai "buông xòa".
"Giăng câu mơ tưởng người trong mộng" lại là một lô chữ
thiếu thực tế. Có người giăng câu nào mà mơ mộng quá mạng vậy. Như anh biết,
hồitụi tui còn trẻ sống bằng nghề câu lưới, chỉ mong cầu cá dính câu là mừng để
đỡ ngặt lúc túng thiếu, chứ làm gì mơ với mộng hoang đường chuyện
trai gái. Giăng câu cực lắm nhe anh Nghĩa. Khóe tay, khóe chưn bị nước ăn nhiều khi
phải đăm lá gáo với phèn chua mà thoa lên chỗ nước ăn cho da nósăn lại đỡ đau;
đó là chưa kể muỗi mòngnó cắn, cực ơi là cực chứ sướng ích gì mà nhớ mà tưởng.
Thành ra tới câu "Nhớ nụ cười ai thấp thoáng qua" là chuyện ngàn năm mây bay rồi
anh Nghĩa à! Làm gì mà có "nhớ" với
"tưởng".
Đó là tui nói cái đoạn bốn câu thơ
trong sách ông Nguyễn Q Thắng. Còn chuyện cây điên điển thì lại không thực ở chỗ
là vì ông là một vị tiến sĩ nên ông không có làm ruộng, theo như tiểu sử anh kể, nên tui cũng không dám lạm bàn.
Nhưng tui biết chắc một điều là cây điên điển thuộc loại có
thân xốp, cao khoảng từ ba tới bốn thước. Chúng có lá đối nhau và bông
vàng như các giống bố rừng hay lan màu
vàng.
Giống lá của loài cây này có cái đặc
điểm là ban ngày chúng mở ra hít thở không khí. Chính vì vậy mà khi mình vào
trong một đám điên điển thấy cái mùi thơm đặc biệt của
lá và cái mát mẻ của hơi thở mà nó thở ra hít vô đó. Nó mát kỳ
lạ lắm mà tui thì chữ nghĩa ít quá không biết sao giải thích cho rõ hơn
được.
Tới chiều lúc mặt
trời gần lặn, mấy cái lá đối nhau nhỏ li ti ấy nó tự động xếp lại nhe anh
Nghĩa. Tức là nó
nhắm mắt ngủ suốt đêm để sáng hôm sau lại mở mắt ướt sương mù và đón mặt trời
mọc.
Người ta trồng cây
điên điển bằng hai cách. Nếu anh muốn
trồng bằng hột thì lúc trái điên điển già mình hái vô và lấy hột phơi khô và chờ
tháng hai tháng ba đất cày bừa xong mới tủ rơm đốt cho cháy rụi rồi vải
hột. Một công đất tùy theo muốn sạ dày hay thưa
mình để dành hột giống từ vài ba lít cho một công. Khi sạ
xong, chờ mưa xuống hột sẽ nứt nanh và mọc thành cây. Sau này có máy
bơm nước mình bơm nước lên khỏi cần đợi mưa, điên điển lên sớm hơn.
Tới tháng Bảy nước
tràn đồng thì bông điên điển bắt đầu trổ vàng rực. Bông điên điển buổi sáng còn búp,
trưa nở, chiều gần tàn. Nên hái bông điên điển thường hái buổi sáng hoặc buổi
trưa. Vì bông điên điển búp thì
ngọt, nở rồi lại bớt ngon, mà sắp tàn thì bông lại lạt nhách, ăn không bằng bông búp.
Qua tháng tám,
tháng chín, người ta bắt đầu đốn điên điển phơi khô làm củi. Củi điên điển vì thân
cây xốp nên lửa cháy bạo nhưng mau tàn. Nhưng mỗi nhà trồng được một công
điên điển mình có thể chụm nấu cơn trọn một năm nhe anh.
Đó là tui kể sơ
qua vụ trồng điên điển bằng hột. Còn cách trồng
nữa là mình trồng bằng hom; tức là trồng bằng các nhánh non của chính cây điên
điển. Số là vào khoảng tháng sáu, tháng bảy, khi cây
điên điển sắp già và trổ bông, mình muốn lấy nhánh non làm hom, anh phải đạp cho
cây điên điển cò xuống. Thân cây điên điển nằm dài theo mé nước nó nẫy những mầm và đăm chồi lên. Những chồi này lớn nhanh. Vào tháng chín, tháng mười nước sắp
giựt, vì 25 tháng chín nước phân đồng, mùng 10 tháng 10 nước giựt, mình dọn đất
sạch sẽ rồi chặt mấy chồi điên điển mà mình định làm giống bó lại từng bó, dựng
dưới đất bùn. Các chồi này gọi là hom điên điển giống như hom
mía giống vậy mà. Khi thấy các hom này ra rễ là mình
đem cắm xuống miếng đất mà mình đã dọn sẵn trồng cây điên điển. Cắm hom
theo khoảng cách tùy theo mình muống trồng dày hay thưa
nhưng thường thường cách nhau chừng năm tấc, xa lắm là một thước vì cắm dày qua
điên điển sẽ ít nhánh và cây không lớn, mà cắm thưa qua thì lại phí
đất.
Đất trồng điên
điển hồi thời tui với anh còn nhỏ thì miệt trên mình đất gò, đất xấu làm rẫy
không tốt là trồng. Có người trồng vài ba công sát mé
vườn vì hồi xưa đất nhiều người thưa nên đất xài hổng hết. Sau này dân đông mà
đất không nở nên người ta trồng điên điển theo bờ
mương, bờ kinh xáng, ít ai trồng ở bờ sông vì điên điển không thích xuống sông
sâu nước chảy anh Nghĩa à. Nó là giống hoa đồng cỏ nội nên nó chịu sống trên bờ
kinh, bờ mương hoặc đất gò, đất ruộng. Đó là đặc điểm của loài
bông này nhe anh. Nếu thỉnh
thoảng anh thấy cặp bờ sông mà có loại cây này thì cũng giống như tui có hôm lên
thăm Sài Gòn vậy mà, không giấu được gót chân đóng phèn của
mình!!!
Anh Nghĩa Tri Tôn
thân,
Về các món ăn từ bông điên điển thì nhiều. Anh ăn sống chắm nước cá kho hoặc mấm kho cũng được. Nó có mùi vị của giá sống. An giòn
giòn mát miệng. Bông điên điển làm dưa ăn giống dưa
giá. Bông điên điển nấu canh chua với cá lóc, cá rô càng
ngon. Bông điên điển nấu canh thường với cá trê ăn giống canh cá trên nấu với bông so đũa. Rồi bông điên điển mà xào thịt heo ba rọi ngọt ơi là
ngọt. Bông điên điên xào với
tép, bỏ thên chút thịt heo hoặc thịt gà làm nhưn bánh xèo ăn
hết sẩy. Nhưng anh xào nấu món gì
ăn cũng ngon ráo trọi kể cả luộc chắm tương chao ăn
cũng ngon như thường vì nó có vị mát, ăn vô là khoẻ re cái bụng.
Ngoài ra, cây điên
điển còn trị được bịnh dời ăn. Người ta bẻ cái đọt điên điển, ở đó
có mũ điên điển chảy ra và thoa lớp mũ lên chỗ dời ăn vài ba lần là lớp da bị
dời ăn từ từ khô lại và hết hồi nào mình hổng có hay. Vậy mà trong cuốn "Các cây
thuốc và vị thuốc Việt Nam của giáo sư Đỗ Tất Lợi, dày gần 1300 trang, mà tui
tìm hoài hỗng thấy thầy tiến sĩ này nhắc tới cái loại cây mọc đầy ở miệt ruộng
rẫy của mình. Nghĩ mà thương cho một loài cây hữu ích mà bị
bỏquên. Phải hông anh?!?
Thưa anh nghĩa Tri
Tôn,
Thơ viết cho anh khá dài mà trong
bụng còn muốn nói hoài nhưng mắt mũi tui bây giờ kém quá mạng nên xin anh cho tui ngừng ở
đây nhe anh Nghĩa. Có trúng trật gì xin anh cho tui biết thêm
rồi cái nào biết tui gởi anh thêm, còn cái nào mình hỗng biết thì tui cũng nói
cho anh biết là tui mù tịt để anh đở lòng mong đợi.
Kính chúc anh chị
và mấy cháu mạnh giỏi.Cho tui gởi lời thăm mấy anh chị Lộc Tưởng và Đoàn Đông,
anh Dương Văn Chung và bà con TSCD mình mạnh giỏi luôn thể nhe
anh.
Kính thư,
Hai Trầu