Lá Thư Từ Kinh
Xáng
Kinh xáng Bốn Tổng ngày 23 tháng 9 năm 2007
Thăm anh chị Đoàn Đông & Lộc
Tưởng,
Năm nay sắp nhỏ
không làm lúa vụ ba, nên trong nhà tháng nước này hơi rảnh
rang một chút, tui ngồi biên mấy hàng này gởi thăm
anh chị cùng bà con Châu Đốc Thất Sơn luôn thể
. Sô là mùa nước lên nhưng năm nay tháng 8 âm lịch rồi
mà nước chưa lên nhiều nên cá mú dạo này kiếm
ăn cũng hổng có dễ . Sắp nhỏ giăng
lưới 3 phân rưởi một đêm kiếm
được vài ba ký bán cũng được vài chục
ngàn, rồi cũng đấp đổi qua ngày anh chị
à . Ở nhà quê mà, tháng nước thì chỉ giăng câu,
giăng lưới thôi, chớ hổng biết làm gì thêm
cho có huê lợi như ở chợ búa mua bán có đồng
ra đồng vô coi bộ khỏe re …
Thưa anh chị,
Số là vài bửa nay , tui
có nhận được tờ đặc san “Châu
Đốc, quê hương và nỗi nhớ”, hổng biết
ai gởi cho mà hổng thấy đề địa chỉ
người gởi; nên dịp này nhờ anh chị chuyển
lời tui vô vàn đa tạ tấm thạnh tình của hội
đồng hương Châu Đốc còn nhớ tui mà gởi
báo cho để đọc đở nhớ mấy anh chị
xa nhà …
Rồi tui bắt đầu đọc
đi đọc lại vài bận vài bài nói về mùa cá
linh, về lúa sạ, về năm non bảy núi, và nhiều
trang báo khác, tui đọc bắt ngây anh chị à ! Nhơn
đây, tui xin ghi ra vài nhận xét gởi qua cho anh chị
tường lãm coi cái anh già này đọc báo là đọc
thiệt tình chứ hổng có đọc lướt lướt
qua trang rồi bỏ qua luôn nhe anh chị …
Trước nhứt bài của thầy Nguyễn
Thanh Liêm viết về “Châu Đốc”,( trang 9), thầy
Liêm có nói lúa sạ vùng mình là do ông Phan Văn Vàng ở Tân
Châu đi mua bán cá sấu bên Miên mang về phổ biến ở
Châu Đốc vào cuối thập niên 1920. Tình thiệt, tui
hổng biết trúng trật gì nhưng hồi xưa tui có
đọc “Bảy ngày trong đồng Tháp Mười”, nhà
văn Nguyễn Hiến Lê có viết:”Năm 1891, cố
đạo Conte, coi nhà thờ Năng Gù (Long Xuyên) đem một
giống lúa ở Cao Miên về đây gieo thử : nó sống
và lên theo kịp nước lụt, nên người Pháp gọi
là lúa nổi (riz flottant) còn người mình gọi là lúa sạ
vì trồng nó chỉ cần cày bừa, sạ (gieo) rồi
đợi tới mùa gặt. Khỏi phải cấy .” (Bảy
ngày trong đồng tháp Mười, trang 86).
Rồi thầy Liêm kể về cách bắt
cá linh bằng “bò” ở miệt sông tiền Giang từ biên
giới Miên đến Vàm Nao (xã Hòa Hảo). Tui thấy thầy
Liêm tả cái “bò” là dụng cụ đươn bằng
tre gọi là “bò”. Thiệt tình tui hổng biết cái bò này
theo lời tả của thầy hình dạng nó ra làm sao ;
nhưng ở miệt Mặc Cần Dưng thì tui biết
cái “bò” như vầy : Người ta đóng một cái
sườn bằng cây hình dạng giống như cái mui ghe
cà dom. Xung quanh lợp bằng những miếng cật tre
cho kín. Ở phía trước thì để trống; phía sau
đít cái bò lợp kín và có chừa cửa nhỏ và có
nắp đậy để mỗi khi kéo bò lên, người
ta mở cái cửa này mà đổ cá ra thúng hoặc ra thùng.
Dưới bụng cái bò, người ta làm hai cây rượng
bằng hai cây tre lớn và dài tới ngọn, loại tre mạnh
tông già càng tốt để khi kéo bò, mọi người
xúm nhau lại nắm hai ngọn tre kéo lên nhanh khỏi cái ụ
vừa nhẹ vừa không bị vướng bùn để
cá không chạy vọt ra kịp .
Sau này có người có đủ
phương tiện họ dùng lòi tói làm cái cảo để
quay cái bò lên thay vì kéo bằng tay vừa nặng vừa chậm
nên cá lớn dễ chạy thoát .
Trong lòng cái bò, người nhà quê thường
chất chà tre hay nhánh bần hoặc nhánh me nước
cho cá vô dựa và cá tưởng như đống chà trên
sông. Địa điểm đặt bò thường mấy
chỗ gần vịnh vì cá lớn thường ở vịnh
hơn ở chỗ doi . Bò mỗi ngày chỉ kéo một vác
hoặc vài ba bửa mới kéo một lần cá mới có
nhiềụ . Các loại cá vô dựa trong bò thường
là cá rô biển, cá lóc, cá trê, cá chạch lấụ . Đôi
khi có cá rô đồng, cá thác lác nhưng tui hổng thấy
cá linh vì cá linh là loại cá đi theo từng bầy và loài
cá đi theo nước chảy chứ hổng có chịu dựa
vô chà như nhiều loại cá đen mà tôi vừa kể .
Riêng cái ụ để đặt cái bò thường ở
chỗ tương đối ấm cúng. Muốn vậy,
xung quanh cái ụ người ta cũng cắm chà chung quanh
để cá dạn ở và ghe tàu cũng hổng có đụng
vô bò làm cá bị động bỏ đi nơi khác . Tui hổng
rành cái “bò” của thầy Liêm tả có giống cái “bò” ở
miệt Mặc Cần Dưng hông ?
Ngoài ra, tui cũng hổng dám có ý kiến gì về
“Nhớ mùa cá linh” của tác giả Hoài Phương (trang
57) nhưng tui biết chắc là cá linh là loại cá không ở
cố định một chỗ . Tháng năm cá linh non ở
trên sông. Tháng 6, tháng 7 cá lội vô đồng. Tháng 8 cá trọng.
Ngày 25 tháng 9 âl nước phân đồng và cá linh dợm ra
mé kinh dò đường sẵn để tháng 10 nước
giựt là hè nhau lội ra sông ráo trọi . Tháng 11 cá linh hổng
còn một con vì đồng khô lúa sắp sạ .Cho nên mỗi
giai đoạn bắt cá linh theo mỗi kiểu nhưng
chung qui hổng ra khỏi đăng đó khi cá linh non;
giăng lưới khi cá linh lớn và lúc cá linh ra sông . Còn kỳ
dư khi cá xuống sông rồi là chỉ mấy đồ
nghề này là chính : chài, vó cất, đóng đáy ngang sông là
bắt cá linh hết sẩy . Hồi xưa ở rạch Mặc
Cần Dưng, cá ra sệt nước, các miệng đáy
chẳng những đầy nhóc cá linh mà còn nhiều loại
cá khác miễn ra sông là dính đáy nhiều lúc phải bửa
đụt, xổ cá ra bỏ bớt để rách đáy
như Hoài Phương kể trong “Nhớ mùa cá linh” đó
anh chị .
Thưa anh chị,
Viết về “Ba sông &
bảy núi” thì theo tui, tác giả Nguyễn Bổn viết hết
sẩỵ, vừa tận mắt thấy núi thấy sông,
vừa sống với sông với núi chứ hổng viết
theo sách địa lý . Tui thiệt tình là biết sợ bài
viết vừa gần gũi , vừa chính xác và vô cùng súc
tích này dù chỉ gói gọn trong 3 trang báo . Không cần minh hoạ
hình ảnh mà các chi tiết về núi, về sông quá sống
động . Hổng chỗ nào mình có thể thêm vô hay bớt
ra được .
Tới bài “Người dân Châu Đốc” mới
thấy cái nét lãng mạn của anh Bảy Tân Châu và cái lòng
hiếu thảo của chàng rể Tân Châu hổng thua bất
cứ chàng trai xứ nào khác. Cái kết của truyện cảm
động.
Tới “Chuyến xe cuối năm” của
anh Nghĩa Tri Tôn xin để anh chị và bà con bàn, tui hổng
dám thêm thắt ý kiến gì vì hổng khéo lại mang tiếng
“mặc áo dài khăn đống lạy nhau”, rồi tui lại
buồn năm phút…
“Vài kỷ niệm về Thủ Khoa Nghĩa
Châu Đốc” của thầy Dương Danh Khoa, phần
kết cảm động và tui tin học trò cũ của
thầy giờ tóc đã hai màu rồi, thầy làm tui hổng
có học với thầy mà còn thấy lòng vô cùng cảm
động, nói gì mấy anh chị học trò cũ của
các lớp thầy đã dạy hồi1963, 1964 !!!
Về thơ, thì bài “Ba khúc quê” của Inrasara
quá mớị. Lâm Hảo Dũng qua “Hương đồng
cỏ nội” lại quá quen. Phan thị Cúc Vàng thì
thơ chở xuồng tình qúa khẩm nhiều lúc đọc
thơ của Phan thị Cúc Vàng chỉ thấy xuồng
luôn lé đé sắp bị những lượn sóng lưởi
búa nhận chìm ….
Thưa anh chị,
Xin lướt qua vài bài
trên “Châu Đốc, Quê hương & Nỗi nhớ”, tui
có vài ý kiến như vậy nhằm chia sẻ cùng anh chị
như tiệng dội lại từ kinh xáng Bốn Tổng
này để anh chi và các tác giả biết tui có đọc
báo thiệt tình . Xin có lời cảm ơn anh chị và bà
con TSCD đã nghĩ tình mà gởi báo cho tôi không ngại tốn
tiền dán cò dán tem tới hai ba đô la chứ ít ỏi gì
..
Kính chúc anh chị và bà con nhiều sức khoẻ,
vạn sự như ỵ
Nay thư,
Hai Trầu
|