Trang Chính    Hình Ảnh    Bút Ký    Truyện Ngắn    Truyện Thật Ngắn    TG & Tác Phẩm    Thơ    Di Tích Lịch Sử và Danh Nhân    Đời Sống: Phong Tục & Khoa Học    Sân Khấu/Nghệ Thuật    Hộp Thư    Nhắn Tin    Tin Tức Thân Hữu    Tin Vui    Phân Ưu    SK và Gia Đình    Lá Lành Đùm Lá Rách    Vui Cười    Ẩm Thực/Gia Chánh    Trang Xuân    Cùng Tác Giả   


VÀI CẢM NGHĨ SAU KHI ĐỌC THƠ NGUYỄN CÁT ĐÔNG


ba.JPG.w300h453.jpg


Chân dung nhà thơ Nguyễn Cát Đông - Trần Bang Thạch.

[Nguồn: Trang nhà Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ)]


Nhà văn Trần Bang Thạch, trước 1975 ký bút hiệu Nguyễn Cát Đông. Thuở nhỏ, anh học các lớp Sơ học, Tiểu học ở làng quê, lớn lên học trường Trung học Phan Thanh Giản  (Cần Thơ), rồi tiếp tục lên Sài Gòn học Đại Học Văn Khoa và Đại Học Sư Phạm Sài Gòn; ra trường 1970, được bổ nhiệm về dạy tại trường Trung học Thủ Khoa Nghĩa (Châu Đốc), trường Cao Đảng Sư Phạm Long Xuyên (địa điểm trường Thoại Ngọc Hầu cũ).


Nguyễn Cát Đông, vốn là một người được nuôi dưỡng bằng chất liệu phù sa vùng đồng bằng làng Thường Thạnh Đông, quận Châu Thành (Cái Răng), tỉnh Cần Thơ, nên người đọc bắt gặp nhiều ký ức của tác giả qua những vần thơ viết về miền sông nước ấy từ những ngày thơ ấu theo mẹ tản cư chạy giặc trên những cánh đồng đầy đưng, lác:


 “Giữa tiếng đạn bom mỗi lần chạy giặc
Giữa lác, đưng, đỉa, muỗi Trà Lồng
Đôi tay mẹ như mây trời bát ngát
Một cánh cò vất vả nuôi con.”


Và rồi, những địa danh thân thiết tự thuở nào của một vùng quê hương lại hiện diện trong thơ anh như dòng nước ngọt nuôi dưỡng những mảnh vườn, những cánh đồng xa xăm cùng những bến sông nhộn nhịp mà sung túc, trù mật ấy của một thời:


 “Ngun ngút đồng xanh Thác Lác, Bà Đầm

Tấp nập ghe xuồng Ngã Bảy, Ngã Năm

Cam ngọt Trường Long, khóm thơm Long Mỹ

Rộn rịp hát đình Bình Thủy, Cái Răng”

 (Mẹ Cần Thơ)


Vốn là một một giáo sư còn rất trẻ vào cái thuở mới bước chân vào đời, rất yêu nghề và thương học trò, người thầy cũ giờ cũng ôm ấp trong lòng nỗi nhớ những phấn trắng, những bảng đen, những trường lớp và những học trò cùng biết bao kỷ niệm êm đềm nhiều khi “mắt ướt giữa sương khói chiều” nào!


“Nghe sao lạ những ngói vôi
lạ em giữa lớp, lạ tôi giữa trường
hạt mưa nào rớt qua đường
hay tôi mắt ướt giữa sương khói chiều!”

(Khúc lạ trường)


Có những khi nắng sớm mưa chiều, có những lúc vì dòng đời dời đổi …, thế rồi, nghề dạy học không còn được như ngày nào vừa cao thượng vừa hoa mộng, vừa cần thiết mà bổ ích, nên có lúc người thầy cũ nghe lòng mình bồi hồi nhớ lại những gì thân ái của một thời yêu dấu ấy:


“Em trong cửa lớp nhìn ra
Ta ngoài cửa lớp thấy ta một thời
những thầy,

những bạn,

những tôi
những cơn mộng cũ

ngồi nơi góc nào?!”

(Khúc lạ lớp)

Để rồi từ đó, người thầy cũ chợt nhớ lại mình có lúc cũng đã từng say sưa giảng cho nhiều lớp học trò về những vần thơ tiễn chồng ra mặt trận với “trống trường thành lung lay bóng nguyệt” vừa hùng hồn vừa cảm động, mà nay sao lòng cảm thấy mình lại lạ lẵm với chính mình:


“Vẳng nghe tiếng trống trường thành
với câu chinh phụ còn quanh chỗ ngồi
người xưa?

người đã đi rồi!
còn đây tiếng phấn nhẹ rơi giữa ngày!”

(Khúc lạ thầy)


Các cái “lạ” mà tôi vừa mời bạn cùng tôi lướt qua vài “khúc lạ” ấy cũng chính là những niềm hạnh phúc của một khoảng đời của người thầy cũ! Nỗi nhớ ấy dường như nó bàng bạc đâu đó trong trái tim, trong tâm hồn của người thi sĩ ấy chừng như tha thiết lắm, như một từ-khúc xé lòng của bàn với ghế, của thầy với trò, của hôm qua và hôm nay…, mãi hoài không lúc nào có thể quên đi được…:


 “Ghế với bàn là kỷ niệm xưa

hay kỷ niệm ghi trên bàn ghế?

Ngồi xuống đi em. Ngồi lâu lâu nhé

để nâng từng kỷ niệm lâu lâu


Có thật là tuổi trẻ qua mau

hay tuổi trẻ đang ngồi ở đó

giữa ghế bàn im và khung cửa nhỏ

chờ ta về dẫu có trăm năm


Những ảnh những hình tưởng đã biệt tăm

bỗng trở lại bằng xương bằng thịt

một ít chỗ kia, chỗ nầy một ít

cũng no đầy một dãy hành lang


Người trở về dẫu nếp da nhăn

dẫu phiêu bạc chân trời góc bể

Vết phấn xưa nghe chừng vẫn trẻ

Tiếng nhỏ đọc bài ngọt sớt như xưa


Bất kể là người về tới hay chưa

vẫn nghe tiếng trống trường giục giã

vẫn tiếng guốc cầu thang thong thả

vẫn thân tình tiếng gọi mầy tao


Em bây giờ vẫn nét xanh xao

của sách vở tú hai tú một

dẫu em có quần bò, áo mốt

thì cũng em guốc mộc áo dài


Kính mời em dừng lại nơi đây

chỗ tay vịn cầu thang tới lớp

Đứng bên em vẫn nghe hồi hộp

Như ngày xưa hồi hộp bên em


Có điều gì em muốn nói thêm

muốn cười, khóc... hay chi cũng được

Bàn ghế đó: khung trời buổi trước

sẽ theo ta cười, khóc trọn đời


Ghế với bàn, bàn với ghế ta ơi!

Cứ ngồi đó chờ ta trở lại.


 (Bàn Với Ghế Ta Ơi)


Xưa nay, dường như không có thi sĩ nào làm thơ hay mà không biết mơ mộng… Hồi còn nhỏ mới ê a học thơ vài ba bài lúc còn ngồi ghế nhà trường, tôi thường nghe thi sĩ Hàn Mặc Tử rao bán trăng:“Ai mua trăng, tôi bán trăng cho…” Vâng, chính cái điều không tưởng tượng nổi có người muốn rao “bán trăng” vì quá đa tình ấy, làm người đọc thế hệ chúng tôi cứ mỗi lần nhắc tới Hàn Mặc Tử là cứ nhớ câu thơ rất quen thuộc nằm lòng!


 Nhưng với nhà thơ Nguyễn Cát Đông, anh không muốn rao bán trăng như Hàn Mặc Tử nữa vì, trước nhứt, anh không muốn bắt chước người nổi tiếng; thứ nữa là việc rao bán trăng như vậy đã thuộc về cái thời dĩ vãng qua lâu rồi, không còn hợp thời của Nguyễn Cát Đông của thời buổi bây giờ … Vả lại, nếu anh muốn bán, thì “trăng xưa” của Nguyễn Cát Đông cũng đã “lạc” mất lâu rồi, còn đâu nữa để một lần mà rao với bán!


 “Khi người về dẫm dấu chân xưa

có nghe tiếng đìu hiu rất lạ

Lau lách cũ bên dòng kinh ngọn lã

chừng như quen, như lạ người về


Vẫn ngàn năm con cuốc gọi hè

Tiếng bìm bịp nghe trầm con nước lớn

Người dẫu thấy lời chim đoài đoạn

Cũng không ngờ người đoài đoạn hơn chim


Con trăng nào vẫn đậu mái tây hiên

Khăn lụa tím còn phơi bờ giậu

Đã thật xa một mùa trăng cũ

sao trên khăn còn giọt vắn giọt dài


Bếp thẩn thờ nhả khói chiều nay

hồn thục nữ chìm sâu bến đợi

Tình buổi ấy cũng buồn như khói

nên thành mây lạc bến xa bờ


để người về mất dấu trăng xưa

Chim vườn cũ nghe chừng cũng lạc

thì đừng trách lầu không hoàng hạc

chỉ còn nghe lá rụng hiên ngoài


Mỏn một đời đá nát vàng phai

Tàn một cánh hường nhan phận bạc

nên nửa mảnh trăng thề đã khác

đã phôi pha tự buổi xuân tàn!”


 (Trăng xưa cũng lạc)

Trần Bang Thạch


Xin mở ở đây một dấu ngoặc để lướt qua một chút về cách dùng chữ “Mỏn một đời”  trong đoạn kết bài thơ vừa rồi của tác giả quá đặc sắc; trước nhứt vì nó quá giản dị, quá gần gũi mà khó dùng vì nó không chứa chút gì chất thơ với thẩn trong đó nhưng nó lại rất là thơ; thứ nữa, nhóm ba chữ ấy nó mang lại cái tứ thơ rất lạ mà hàm súc bởi lẽ “mỏn một đời” là diễn tả được cái cùng cực của một phận người như người ta thường nói “mỏn chí, mỏn dạ, mỏn hơi, mỏn lòng, mỏn sức…” thì ““mỏn một đời”, theo tôi, nó bao hàm tất cả ý nghĩa của những chữ mà tôi vừa lược kể vậy. Bạn không thấy tác giả rất cực khi lựa chọn những chữ này cho câu thơ của anh sao?


Giờ xin trở lại, trong dòng đời trôi, cứ trôi đi mãi không ngừng ấy, đôi lúc “nửa mảnh trăng thề đã khác/ đã phôi pha tự buổi xuân tàn!”,  có lẽ vì để “trăng xưa” “ cũng lạc”  nên Nguyễn Cát Đông bị trăng bắt đền, nên anh phải làm rất nhiều thơ về “trăng”.

Chẳng hạn, có một lần, tác giả đã“say trăng”:


 “Dù em là nguyệt hay trăng

Thì em cũng vẫn là Hằng Nga tôi

Cao sang em ngự cõi trời

Tôi tên tục tử suốt đời say trăng”

(Say trăng)


Rồi chàng thi sĩ Nguyễn Cát Đông của làng Thường Thạnh Đông của Cái Răng, Cần Thơ thuở ấy, có lần lại ngủ giữa vườn trăng chìm ngập những trữ tình, những lãng đãng của một thời say đắm với ánh trăng treo trên lá trên cành hoặc trăng trôi trên dòng sông trăng bất tận với những cánh bướm, những nụ hoa vàng bông cải cùng tiếng chim sẻ bên hiên nhà chợt thức giấc, cùng những “nụ tình ngập ánh trăng chơi”…:


 “Em vô tình

thả rớt một dòng trăng

để cánh bướm vườn khuya mất ngủ

luống cải tàn đông

cũng ngậm trăng mà xôn xao kết nụ

tôi cũng nghe mình đầy ứ một vườn trăng


trăng chảy ngọt ngào

trăng chảy mênh mông

đôi chim sẻ bên hàng hiên chợt thức

chợt chấp chới môi tìm môi ướt

trăng đậm như tình

trăng mộng như thơ


một cánh cửa hồn tôi bỗng hé, đâu ngờ

để em dạo gót hồng thư thả

Em là hương, là trăng

là sóng vàng rộn rã

chảy hiền từ

qua từng ngõ ngách tôi


tôi ngủ hiền từ

giữa nhánh trăng trôi

giữa một vườn em

vườn trăng tình tự


có một lúc, hình như, bỗng nở

mấy nụ thơ tình ngập ánh trăng chơi


Em, một vườn trăng

Vàng một vườn tôi”

(vườn trăng)


Với tám chữ bình dị, mộc mạc mà đơn giản, không trau chuốt cầu kỳ gì mà thi nhân vừa thay lời kết cho những vần thơ vừa kể về trăng, ở đó trăng và người hòa quyện lấy nhau không rời quả là quá đẹp, quá trữ tình và quá lãng mạn:

“Em, một vườn trăng

Vàng một vườn tôi”


Thêm nữa, trong thơ Nguyễn Cát Đông, người đọc bắt gặp trăng lúc nào cũng chan hòa vào một hình tượng có thật như là tóc, như là bông để chúng ta có những câu thơ vẽ nên bức thanh thủy mặc mà giàu cảm xúc, lung linh, sống động…

Xin mời bạn, dưới đây là mấy vần thơ về “tóc trăng” ngọt ngào mà tha thiết:


“Em về tóc nhuộm màu trăng
Tôi mòn con mắt giữa hằng hà sao
Áo hoa hay má em đào
Nghe trong sắc lụa có hào quang em
Ngọt câu tình tự lời chim
Hay lời tôi nghẹn giữa im lặng chờ
Bước em. Bước khẽ. Bước hờ
Em mông lung để vật vờ bước tôi

Cuối đường tóc chảy trăng trôi
Em trong cửa khép. Tôi nơi cõi ngoài

Trăng về ngủ muộn trong mây
Tóc em ngủ muộn trên ngày tháng tôi”


 (Tóc trăng)


Và, bài “trăng hoa” với câu thơ ngắt nhịp từng chập, từng chập mà bồi hồi…:


“Rừng bỗng thấp
Thấp
Mù đại lãnh
Núi khốc khô
Đá rớt
Địa tầng

Mầm bỗng nhú từ nghìn thu đọng
Phút định hình hoa động tình trăng.”

(Trăng hoa)


Dường như nhà thơ Nguyễn Cát Đông không có in thơ thành sách, nhưng thơ anh còn rất nhiều, nhiều lắm, rải rác trên các trang mạng, phần nhiều ngự trị trên trang nhà Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) mà anh là người chủ bút, hầu hết đều tha thiết, như trong những bài ​“Tháng tư, nhớ Sài Gòn”, “Tiếng cười em”, “Hạt tình”, “ Cây si”, “Ví dầu”, “Nước mắt”, “Thu rơi”, vân… vân… và còn nhiều nữa; nhưng ở đây tôi muốn mời bạn cùng thưởng thức thêm một bài thơ của Nguyễn Cát Đông rất giản dị mà đẹp; đẹp cả hình thức lẫn nội dung, bài “Chuỗi Ngọc”, mà theo thiển ý của tôi, một người nhà quê già, bạn chỉ cần liếc mắt qua một chút với chừng ấy thôi, là bạn đã nhận ra được thế nào là quý báu và hạnh phúc trong tình chồng vợ, nghĩa phu thê mấy chục năm gắn bó với nhau rồi!


Xin mời bạn:


Chuỗi Ngọc

 
 “Chợt thấy tình như chuỗi ngọc châu
để anh đếm từng ngày châu ngọc
Hạt chuỗi đầu: em huyền mái tóc
Cho thơ anh suối chảy miên truờng
 
Có chút gì như chút dễ thương
Chút mộng, chút mơ, chút hờn, chút dỗi
Chỉ một chút của em mà lòng anh bão nổi
Nghe sao thương giọt nắng bên thềm
 
Nghe ngọt ngào từng hạt mưa đêm
để anh thức làm thơ. Và làm thêm nỗi nhớ
Rồi từng hạt ngọc châu tình yêu tuổi nhỏ
nối dài thêm xâu chuỗi ân tình

Một đoạn đường dài, vạn nẽo chông chênh
Ta nắm chặt tay vượt ngàn thương khó
Hương lửa ba sinh ngọt ngào từng hơi thở
Hun tình yêu nồng thắm đến bây giờ

Tạ ơn Người Tình-Người Vợ-Người Thơ
Đã hết dạ cùng anh kết tròn xâu chuỗi ngọc”

(Nguyễn Cát Đông- Trần Bang Thạch)


Tóm lại, sau khi đọc một số các bài thơ của nhà thơ Nguyễn Cát Đông-Trần-Bang Thạch trên trang nhà Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm, tôi nhận ra được ở những trang thơ ấy cái hơi thơ của tác giả nó phảng phất cái nét văn chương rất uyên bác của một nhà mô phạm mà khiêm cung, bình dân và ân cần; cái giản dị của chữ dùng mà bàng bạc một tấm lòng chơn chất của người con xa quê không lúc nào quên mình là nhà quê, là dân vườn, là dân ruộng. Thêm nữa, Nguyễn Cát Đông còn là một người học trò già luôn ghi khắc trong tâm tấm lòng nhớ ơn thầy cũ của mình và chính anh lại là một người thầy cũ nhớ trường, nhớ lớp, nhớ bàn, nhớ ghế, nhớ bạn và nhớ học trò ngày nào của anh nữa, không dứt…. Đặc biệt, tác giả còn là một người bạn đời chung thủy rất mực với “Tạ ơn Người Tình-Người Vợ-Người Thơ/ Đã hết dạ cùng anh kết tròn xâu chuỗi ngọc”!


Ôi, đẹp biết bao!


Hai Trầu

Houston, ngày 17.01.2021