Tuổi học trò
Huỳnh Ái Tông
*
Tôi sinh ra ở một cù lao sông Hậu, nhà của cha mẹ tôi nhìn
ra sông, con sông nhỏ thuộc sông Hậu Giang, chạy dọc theo con lộ đá đường Long
Xuyên Châu Đốc, ai đã từng đi xe đò trên đường nầy, sẽ nghe tới địa danh Bắc
Năng Gù. Tên ấy theo tôi mấy anh xe đò ngày xưa đã quen miệng, đặt sai tên. Vì
chiếc Bắc ấy chạy từ chợ Bình Mỹ đi sang vùng thánh địa Hòa Hảo, nơi đó là sông
Hậu Giang, bị cù lao chia thành nhiều nhánh, có một nhánh chảy qua làng tôi, đó
là cù lao Năng Gù, một nhánh nữa chảy qua nối với Tiền giang. Chiếc bắc ấy
không phát xuất từ Năng Gù, không chạy tới Năng Gù, nó chỉ chạy ngang qua trên
đường chạy của nó, nhưng chạy gần đuôi của một cù lao kia hơn là đầu cù lao
Năng Gù, cho nên Năng Gù và chiếc bắc ấy không có gì dính dáng nhau, và cù lao
Năng Gù có ghi trong Đại Nam Nhất Thống Chí, nay là làng Bình Thủy, huyện Châu
Phú, tỉnh An Giang.
Tôi đã đi hơi xa một chút, xin trở lại bên kia sông là con lộ
đá đường Liên Tỉnh 10, nối liền Long Xuyên Châu Đốc, bạn có biết tại sao gọi là
Liên Tỉnh 10 không ? Ngày xưa sau khi Lục Tỉnh mất luôn vào tay Pháp, họ chia đất
Nam Kỳ ra làm 20 Tỉnh, mỗi Tỉnh xếp theo Thứ Tự sau đây : 1. Gia Định, 2. Châu
Đốc, 3. Hà Tiên, 4. Rạch Giá, 5. Trà Vinh, 6. Sa Đéc, 7. Bến Tre, 8 Long
Xuyên ... để dễ nhớ, người ta ghép thành một bài Tứ Tuyệt :
Gia Châu Hà Rạch Trà
Sa Bến Long Tân Sóc
Thủ Tây Biên Mỹ Bà
Chợ Vĩnh Gò Cần Bạc.
Tỉnh Châu Đốc thứ tự 2, tỉnh Long Xuyên thứ tự 8, do đó hai
tỉnh cọng lại là 10. Ghe ngày xưa cũng có số, ví dụ ghe nào số HF 1 là ghe của
chủ ở Gia Định, HF 6 là ghe của chủ ở Sa Đéc. Tôi lại đi xa nữa rồi.
Bên kia sông có một ngôi trường, xây tường gạch, lợp ngói
móc, có ba lớp và một căn phòng nhỏ, bên tay phải chừng bằng phần ba lớp học,
các lớp nằm trên nền xây đá cao hơn sân trên một thước tây, chú tôi dạy và làm
Trưởng giáo của Trường nầy, thời Pháp tên của nó là ECOLE DE BÌNH M³, hồi mới dạy,
chú tôi ở ngay phòng bên cạnh lớp, sau chú tôi cất nhà bên cạnh trường, sau nữa
chú tôi mua đất trong làng, dời nhà về bên cù lao, hàng ngày đi dạy, chú tôi
bơi xuồng qua sông chở theo con và cháu đi học.
Cách nhà tôi chừng 200 thước, cũng có ngôi trường làng, cũng
xây giống như ngôi trường Bình Mỹ, nhưng xây thấp hơn, nền chỉ cao hơn sân chừng
4 tấc tây, và có xây lan can ngăn chia giữa hành lang với sân trường. Trước sân
trường có trồng mấy cây Ô Môi, gần Tết ô Môi trổ hoa màu tím trông rất đẹp,
trái ô môi bằng cườm tay dài từ 3. 4 tấc đến một thước, bên trong có những miếng
ngăn, cách nhau chừng đầu đủa ăn, mỗi miếng nầy có cái hột dẹp và có những cơm
màu nâu sậm đen, ăn nó ngọt, ăn nhiều bị táo bón, nhiều người rất thích ăn ô
môi.
Tôi sanh năm Tân Tỵ (1941), lúc tôi biết, hàng ngày chú tôi
bơi xuồng sang sông, chở theo anh tôi, con chú tôi, do đó cha tôi cũng cho tôi
theo anh sang bên kia sông học, anh tôi lớn hơn tôi ba tuổi nên học với chú tôi
dạy chung trong một lớp, hai trình độ Cour Moyen và Cour Supérieur, ai ở Châu đốc
biết thầy giáo Huỳnh Bá Nhệ ấy là chú tôi.
Tôi học Cour Élémentaire với thầy giáo Lê Văn Thọ, thầy vở
lòng của tôi, ai là học sinh Cao Thắng có bằng Tú Tài Kỹ Thuật, lật phía sau
lưng, có thể thấy chữ ký và tên của người viết bằng Lê Văn Thọ, đó là thầy tôi,
sau nầy về làm việc tại Phòng Khảo Thí Nha Kỹ Thuật Học Vụ.
Thầy giáo đầu đời của
tôi, Thầy Lê Văn Thọ, tôi và bạn học thuở ấu thơ Lê Văn Khải (ảnh 2007)
Trường đầu đời nầy tôi có nhiều kỷ niệm, tôi nhớ sau khi đi
học đã mấy ngày, một hôm tập viết, thầy tôi bảo lấy thước gạch hàng, tôi không
có thước vừa khóc vừa chạy sang lớp anh tôi để mượn cây thước của anh ấy. Chú
tôi đang ngồi dạy ở bàn thầy giáo, thấy tôi vừa khóc vừa lấy thước đi về lớp,
chú bảo tôi :
- Nín
đi! Đi học mà khóc cái gì !
Tôi nhớ mỗi lớp có hai dãi bàn, có 2 tấm bản đen, mỗi bản đặt
nằm trên một cái giá, bàn thầy giáo dựa tường nằm giữa hai tấm bản, tôi ngồi
bàn đầu, phía tay phải của tôi là anh học trò tên Độ, nhà anh ở phía tay trái của
trường, cách miếng đất trống, bên tay trái của tôi là Trai và kế bên Trai là Lê
Văn Khải con của thầy. Hồi nhỏ chúng tôi thường gọi là trò Độ, trò Trai, trò Khải.
Một hôm thầy kêu Trai đọc bài, Trai đứng lên để nhìn bản đọc,
Khải và tôi mỗi người một bên nắm quần xà lỏn của Trai, Trai chẳng để ý, đứng
lên, quần bị tuột xuống, Trai phải ngồi xuống. Thầy tưởng Trai không vâng lệnh,
Thầy gọi lên đánh Trai hết mấy khẻ tay, tội nghiệp Trai bị khẻ tay mà chẳng
than phiền chúng tôi, lần khác Thầy gọi, Trai chẳng dám đứng lên, Thầy định khẻ
tay nữa, có vài anh học trò lớn bất mãn liền mét với Thầy nguyên do vì chúng tôi
nắm chiếc quần xà lỏn Trai không dám đứng lên.
Biết rõ lý do, thầy gọi Khải và tôi lên bàn, thầy lấy cây
thước bản ( cây thước dài chừng 2 thước, thầy giáo dùng để chỉ lên bảng giảng
bài), bắt chúng tôi chúm năm ngón tay lại, thầy đánh hai chúng tôi mỗi đứa 3
cái, đau ôi là đau thấu xương từ đó chúng tôi không dám nắm quần đùi trò Trai nữa.
Trong sân trường về phía nhà trò Độ có cái đu, chúng tôi tha
hồ đánh đu, học trò gái chơi chuyền chuyền hay nhảy đây, hoặc họ chơi cò cò,
sân trường phía nhà trò Trai có một cây, mùa Hè hoa nở đỏ, mọi người đều gọi là
Điệp Tây, có lẽ hồi xưa trong Nam không có thứ cây nầy, Pháp đến rồi họ trồng gọi
là Điệp Tây, cũng như giữa sân đình làng tôi có trồng cây Chuối Tây. Sau nầy
tôi mới nghe Điệp Tây là Phượng Vỹ. Ở cạnh đó có cây dừa cao bị sét đánh cháy
phân nữa những tàu lá. Trai kể cho chúng tôi nghe, ban đêm ở đó có con quỷ mẹ
vào những đêm mưa lâm râm hay trời không trăng, tối thui, con quỷ mẹ ru con ngủ,
tiếng ru lảnh lót, tiếng võng đưa cọt kẹt, nên một hôm trời mưa, Thiên lôi đến
cắm cờ trên đọt cây dừa, rồi ông Trời đánh một cái rầm, cây dừa bị cháy lá, cây
Điệp Tây bị gảy nhánh, Trai còn dặn chúng tôi, khi nào trời mưa coi chừng bị Trời
đánh, đi dưới mưa thỉnh thoảng nên rờ lên đầu coi có bị Thiên Lôi cắm cờ không,
nếu bị thì rút cờ ném xuống đất mà chạy, còn ở trong nhà thì dọn cơm ra mà ăn,
ai ăn cơm ông Trời không bao giờ đánh, vì ‘’ Trời đánh còn tránh bửa ăn ‘’.
Chúng tôi ai cũng say sưa nghe Trai kể chuyện Trời đánh, vừa sợ ma vừa sợ trời
đánh và cũng phục Trai biết nhiều.
Có một lần trò Hàn, ngồi ở cuối lớp thầy gọi tập đọc, đánh vần
chữ TÔI, trò Hàn cứ đánh vần T, Ô, TÔ, I, TUI, thầy dạy: ‘‘ Mầy phải đánh
vần T, Ô, I, TÔI ‘’, trò Hàn : ‘’ Dạ ‘’, rồi cũng cứ T, Ô, TÔ, I, TUI, thầy
đánh mấy lần, trò ấy cũng cứ TUI chớ không làm sao đọc TÔI, thầy bỏ qua, gọi
trò khác.
Thầy dạy học, hết giờ thầy kéo kẹo, đến ra chơi thím bán kẹo
kéo cho chúng tôi ăn, một lần giờ ra chơi, tôi ở ngoài sân chú tôi đến bên móc
ví, lấy cho tôi một cắc, tôi nhớ tờ giấy Hào hay mười xu ấy là một tờ giấy nho
nhỏ, in màu vàng, còn tờ giấy hai Hào lớn hơn một chút, in màu nâu, được tiền
chú cho, tôi chạy mua kẹo kéo ăn, kẹo xốp dòn, bên ngoài còn dính lớp bột trắng,
nhờ đó những cây kẹo để chung không dính với nhau. Kẹo ấy làm là dùng đường nấu
(gọi là thắng) cho đặc lại, rồi dùng đủa kéo nó ra, nhập nó lại rồi kéo nó ra,
cứ kéo ra, kéo vô cho đến khi thành kẹo, nên gọi là kẹo kéo.
Hồi đó trai gái học chung, con gái cha mẹ cho đi học rất ít,
lớp trên tôi có chị Phấn, lớp tôi có cô Phe và những trò gái khác tất cả đều để
tóc dài, kẹp lại phía sau lưng.
Sau đó Việt Minh cướp chánh quyền, Thanh Niên tiền phong tập
họp thành hàng ngủ, họ vác tầm vông vạt nhọn, tập đi tới, đi lui với hàng
ngang, hàng dọc, rồi họ tập vỏ, rồi chú tôi và Thầy Thọ bỏ Trường về tỉnh, trường
gần nhà tôi thầy giáo cũng bỏ đi, cả hai trường đều đóng cửa, học trò nhỏ tuổi
được ở nhà chơi, lớn tuổi hơn lo công việc đồng áng, ban đêm thanh niên ở làng
tôi chèo ghe qua bên kia sông đào đường, chặt cây cản lộ, ban ngày dân bên kia
sông bị bắt đi lấp đường, phá cản cho xe nhà binh, xe đò chạy. Thỉnh thoảng Tây
Trắng, Tây đen đi bố ráp, tuy nhỏ tôi cũng phải chạy theo mẹ theo anh. Có một
hôm tôi thấy một chiếc tàu lớn lắm, lấy lá dừa che phủ ở trên, ghé vào trường
tôi ở mấy hôm, những người ở trên tàu thấp lùn, cha tôi bảo đó là lính Nhật.
Nhớ lại năm ấy là năm Ất Dậu 1945, tôi sanh năm 1941, như vậy
tôi đi học sớm lắm, mới có 4 tuổi, người ta chưa tới tuổi cập vở đến trường thì
tôi đã bị thất học rồi.
Sau khi chú tôi về Tỉnh một thời gian, cha tôi được thư của
chú, bảo anh tôi và con của người chú khác, bơi xuồng sang sông chở tủ sách của
chú, đem về để ở nhà tôi, một hay hai năm sau chú tôi mới về mở tủ lấy sách
mang đi, cha tôi mượn lại bộ sách đạo Niết Bàn Tạp Chí, cô tôi không chồng ở
chung nhà, mượn giữ lại bộ Tiểu Thuyết Thứ Bảy và chú tôi để lại mấy quyển sách
Luân Lý, Cách Trí, Quốc Văn Giáo Khoa Thư các lớp Đồng Ấu, Dự Bị và Cao Đẳng,
cho anh em tôi học.
Cha tôi làm Hương Sư, các thầy giáo bỏ trường Bình Thủy ra
đi, giao chìa khóa trường lại cho cha tôi, có dạo anh Hai tôi đi Tân Châu học dệt
vải, vải dệt từ bông vải gọi là vải ta, sợi chỉ to nên vải dầy, trông thô, còn
dệt từ sợi tơ của tầm, sợi tơ rất nhỏ, vải mịn và chắc gọi là lụa, quận Tân
Châu ở Châu Đốc nổi tiếng là Lụa Mỹ A cũng gọi là Lãnh Mỹ A, có lẽ vì lụa ấy mặc
vào nó mát lạnh nên gọi là Lãnh, quần Lãnh Mỹ A mới may, mặc đi nghe sột sạt,
chỉ có một màu đen, nhuộm với trái Mạt Nưa, chỉ dùng may quần cho phụ nữ và giá
rất đắc tiền.
Rồi một thời gian sau vải nhập cảng, anh tôi không công ăn
việc làm, lấy chìa khóa cùng với anh Hoài mở cửa trường, lấy lớp dạy tư, tôi
không có đi học, dạy vài tháng anh tôi bỏ đi Sàigòn làm cho nhà thuốc Nhành
Mai, ở bên hông chợ Sàigòn số 36 Saboraine sau đổi là Tạ Thu Thâu, chuyên bán
thuốc dán Con Rắn và thuốc Dưỡng Thai. Còn thầy Hoài sau làm chủ nhà thuốc Bình
Sanh, chạy ghe máy bán khắp nơi trong vùng Long Xuyên, như Sơn Đông Mãi Võ. Năm
1969, đi lính về phép gặp được anh trong quán nhậu tại thị xã Long Xuyên, cụng
với anh một ly tràn đầy bọt bia.
Rồi lúc nào đó chú Nguyễn Hoa Hẩu lấy trường mở lớp dạy tư,
chú là con của thầy giáo Nguyễn Văn Đe, tôi nghe nói ông Bảy Đe hồi đó dạy tại
Long Xuyên, chú tôi theo học với ông, sau ông đổi đi dạy trường tỉnh Sa Đéc.
Chú Hai Hẩu cũng như anh Hai tôi có đi học lớp nhứt trường tỉnh, nhưng cả hai
không đậu được bằng Primaire. Cha tôi cho tôi đi học với chú Hai, lớp học nầy
chỉ có một dãi bàn, mỗi bàn rất dài, đóng ván sao dầy gần 2 phân nên rất chắc
và nặng khỏi chê. Lớp học chỉ có một cửa và một lối vào ra, một bên là tường một
bên là dãi bàn học, hai cửa sổ, hai tấm bản và cái bàn thầy giáo, trên tường có
treo tranh vẽ khá lớn cảnh bến tàu và chợ Sàigòn, những hôm trời mưa lớp tối tù
mù vì không có đèn đóm chi cả.
Trường có một cái trống, chú Hai không treo lên, để nó ở gần
bàn chú ngồi và chỉ mình chú đánh trống vào lớp, trống ra chơi, trống tan trường,
chú đánh bằng cái dùi to chừng bắp tay, có nhiều hôm giận quá khi dạy học trò
không hiểu, không thuộc bài, chú sẳn tay quơ cái dùi trống đánh luôn lọc trò
vào lưng nghe thình thịch gần giống như chú đánh trống tan trường.
Một hôm chú dùng cây thước kẻ đánh luôn vào mặt trò Đơn, cây
thước ấy là cây thước vuông bằng gỏ, bốn cạnh của nó được người thợ mộc khéo
tay xẻ bốn đường, khảm vào đó 4 miếng thau, là cây thước cưng của học trò nhà
giàu, cạnh thước đó chú đánh vào xương gò má trò Đơn tét một đường chảy máu, giờ
ra chơi tôi phải đưa trò Đơn về nhà, lấy muối bọt chấm miếng nước xát vào chỗ vết
thương, trò Đơn tội nghiệp lo sợ than thở với tôi : - Tao bị vầy, về nhà cha
tao thấy, chắc ổng đánh tao nữa.
Đến năm 1950, chú Hai Hẩu, tôi thường gọi là Chú Hai chớ
không gọi thầy, tổ chức cho học trò xuống Long Xuyên thi, một số đóng góp tiền
thuê một chiếc ghe, xuống đậu ở bến sông gần trường Nam Tiểu Học Long Xuyên để
dự thi, gia đình tôi có người quen làm Police ở dãi phố gần Rạp hát Thanh Liêm,
tôi và người em con ông chú ở đó, ngày đi thi tôi ngồi ở phòng học cột tràm, lợp
lá vách cũng không che được kín, dãi ấy sát với hàng rào dây kẻm gai, phía sau
là ao, hồ, có nhà vệ sinh cất trên ao cá, học sinh muốn đi còn phải đi qua chiếc
cầu khỉ bằng tre, sau nầy chỗ ấy lấp đi để xây Trường Trung Học Thoại Ngọc Hầu.
Sau một ngày thi, tôi vẫn về ở nhà quen, đến hôm kêu
Résulta, lúc ấy chừng 10 giờ sáng, tôi không rõ có bao nhiêu thí sinh thi,
nhưng đi nghe lèo tèo chừng vài chục lố nhố đứng chờ ở giữa sân cờ, một ông thầy
giáo ra đứng trên cái ghế giữa sân trường, bắt sĩ tử phải xếp hàng, xong ông ta
mới lấy cái loa làm bằng kẻm, sơn trắng đọc danh sách những người đậu, gồm có số
báo danh, họ tên và nơi sanh.
Tôi nghe đọc tên Huỳnh Hữu Tâm đậu, Tâm đứng gần đó cũng
nghe như thế, còn tôi không có tên, biết mình đã thi rớt, tôi ra bến xe đi về
nhà.
Xuống xe, tôi lo sợ về nhà sẽ bị cha tôi đánh đòn vì thi rớt,
chị tôi bơi xuồng qua đón, chị hỏi :
- Đi mấy ngày nay thi đậu hay rớt ?
Tôi buồn bả đáp :
- Rớt rồi chị Ba.
Chị tôi mĩm cười nói thêm:
- Vậy là từ nay thay họ đổi tên thành Bùi Kiệm rồi!
Nghe chị nói tôi còn buồn hơn, xuồng chị tôi chưa cập
bến, có một anh hàng xóm tên là Vương Triều Hón, năm ấy anh ta cũng gần năm
mươi, thấy tôi anh ta hỏi :
- Sao chú mầy đậu rớt ?
Tôi buồn bả trả lời :
- Rớt rồi anh Năm!
Đúng ra về vai vế anh ta phải gọi tôi bằng anh, nhưng anh ta
đã trộng tuổi, lại để râu thành ra mấy anh chị em tôi đều gọi anh ta bằng anh.
Anh ta cười ruồi nói với tôi :
- Cậu Ba có một bầy dê, mầy sẽ làm ông Tô Võ, chăn dê đến
khi nào dê đực đẻ thì mới thôi đó nghe mậy!
Tôi đã sợ bị đòn, anh ta nói đùa, tôi không mấy vui, từ chỗ
xuồng cập bến về tới nhà chừng 200 thước, anh Năm Hón nói xong đi về nhà của ảnh,
tôi đi về nhà tôi, hai hướng khác nhau, còn lại một mình, tôi tư tưởng, cha tôi
trước kia ăn chay trường được 10 năm rồi bị lao phổi, đi bệnh viện Long Xuyên
được Bác Sĩ Bàng trị hết, khuyên dứt cha tôi ăn mặn, và có người khuyên nuôi
dê, lấy sữa dê uống cho bổ, vì vậy cha tôi nuôi một bầy dê Bắc Thảo, giống to
con, màu tím lốm đốm trắng, sữa nhiều. Nếu thi đậu, tôi có thể xuống tỉnh học lớp
Nhì, còn nay thi rớt, nhà cha mẹ tôi lại không dư ăn dư để, anh kế tôi đang học
ở Long Xuyên, nên tôi phải ở nhà chăn bầy dê là cái chắc, dê thứ chi cũng ăn,
phải chăn giữ để chúng đừng ăn của người ta, lại còn phải trông nom bảo vệ
chúng để khỏi bị chó cắn.
Về tích Tô Vũ, tôi đã nghe người ta nói, ngày xưa ông ta làm
quan, vua Hán phái đi sứ sang Hung Nô, vua Hung Nô không coi sứ ra chi, bắt đày
ông Tô Vũ đi chăn dê, dạy rằng khi nào dê đực đẻ thì tha cho về Hán. Khi bị đày
chăn dê, ông Tô Vũ vẫn coi mình là sứ giả, về sau vua Hán cho quân đánh Hung
Nô, tìm ra Tô Vũ râu tóc bạc phơ, tay vẫn cầm cờ sứ rách nát te tua.
Bước vào nhà, cha tôi đang vẽ tranh, không nhìn tôi, ông hỏi
:
- Thi
đậu rớt mậy ?
Tôi trả lời ngay :
- Dạ rớt
rồi cha!
- Vậy
thì mầy cũng nếm được mùi thi cử!
Cha tôi không nói thêm nữa, tôi mừng vì khỏi bị đòn, anh em
tôi sợ những trận đòn của cha, đánh mà không cho khóc, không cho ai can, má hay
cô tôi can thì chúng tôi còn bị đòn nhiều hơn.
Khi tôi xuống tỉnh dự thi, tôi ở nhà anh Police quen, còn
anh tôi ở trọ dưới Cái Sơn, lúc thi rớt ra về tôi cũng không nói cho anh tôi
hay. Vài hôm sau đến Chủ Nhật, anh tôi về, gặp tôi ngoài sân, anh cười nói với
tôi :
- Thi đậu rồi sướng quá hé!
Tôi năn nỉ anh tôi :
- Thôi mà! Thi rớt rồi anh còn mỉa mai nữa chi vậy ?
- Không mầy thi đậu rồi mà!
- Thôi đi anh ơi, tôi đứng gần ông thầy cầm cái loa, ổng đọc
tên thằng Tâm con chú Chín, chớ đâu có tên tôi!
Anh tôi cải lại :
- Sao kỳ vậy ? Thằng Tâm rớt mầy đậu mà!
Cha tôi trong nhà nghe hai anh em cải lẩy thi đậu rớt, liền
gọi anh tôi vào hỏi cho rõ, anh tôi nói là xem bảng thấy rõ tên tôi, còn Tâm
con chú tôi bị gạch đỏ cũng như những đứa thi rớt khác. Cha tôi nói :
- Vậy mà mấy bửa nay nó nói nó rớt.
Tôi thấy khi rớt, cha tôi chẳng buồn và rầy rà, khi thi đậu
cha tôi chẳng những không vui mà lại còn có nét suy tư và buồn bả, sau nầy tôi
mới biết, đáng lẽ thi đậu gia đình phải cho tôi xuống Long xuyên học tiếp,
nhưng cha mẹ tôi không có tiền, tôi phải thất học, cũng là con, hai anh tôi đều
được xuống tỉnh học, còn tôi thì không được như vậy, cha mẹ nào lại không buồn,
mẹ tôi vốn ít nói, nên cũng chẳng nói chi về việc thi cử của tôi. Có người đưa
ý kiến, cho tôi lên Châu Đốc ở nhà chú tôi đi học. Cha tôi nói :
- Chú nó tốt, nhưng còn thím.
Vài năm sau, anh tôi lãnh bằng đem về cho tôi đó là Văn Bằng
Sơ Đẳng Tiểu Học, có chữ ký của Thanh Tra Hàng Tỉnh Long Xuyên Trương Văn Đức
và Giám Đốc Sở Học Chánh Nam Việt Trần Bá Chức, đấy là mảnh bằng đầu đời, ngày
nay tôi vẫn còn giữ được.
Rồi năm sau, năm 1951, chú Hai Hẩu xin làm thầy giáo, chú
xin thêm thầy về dạy đó là thầy Giáo Chín, quê ông ở Chợ Mới, thầy đến cùng gia
đình ở một chiếc ghe nho nhỏ, con thầy có anh Quan, anh Quân, chị Liệt, chị Tuyết
và con gái út tên So, da trắng, môi son, tóc hớt ngắn như con trai, cô ta đẹp
và dễ thương.
Tôi thì, nhà chưa có đủ tiền đi học ở dưới tỉnh, cha tôi xin
chú Hai cho tôi học buổi sáng, buổi chiều ở nhà chăn dê. Nhà tôi gần trường,
cha tôi từng làm Hương Quản rồi Hương Sư nên mỗi ngày, lúc giờ chơi chú Hai và
thầy giáo Chín thường đến nhà tôi uống trà, bàn chuyện Đông Tây, kim cổ.
Một hôm, cha tôi đưa quyển Tam Thiên Tự, sách đóng bìa cứng,
bảo tôi đem theo, lúc rãnh lấy ra đọc và viết xuống đất cho nhớ , tôi đã học
Thiên : Trời, Địa : Đất, Cử : Cất, Tồn : Còn, Tử: Con, Tôn : Cháu, Lục: Sáu,
Tam : Ba, Gia: Nhà, Quốc: Nước, Tiền: Trước, Hậu: Sau, Ngưu : Trâu, Mã : Ngựa
cho đến bây giờ tôi chỉ còn nhớ bấy nhiêu đó.
Tôi đi chăn dê trong cánh đồng, thường đi một mình nên lấy
Tiểu Thuyết Thứ Bảy theo đọc, những chuyện Cô Giáo Minh của Nguyễn Công Hoan,
Hòm Đựng Người của Nguyễn Triệu Luật, Bóng Cờ Trắng Trong Sương Mù của Ngọc
Giao (?), tôi không nhớ có thơ TTKH hay không, vì ngày đó tôi không đọc thơ.,
tôi đã đọc hầu hết những chuyện ngắn trong những quyển tiểu thuyết của chú tôi.
Thời gian đó tôi còn đọc Tế Điên Hòa Thượng, Hỏa Thiêu Hồng Liên Tự, Thằng Bờm,
Thần Hổ của TCHYA (Đái Đức Tuấn), cho nên tôi bị nhiễm tiểu thuyết.
Đã vài năm mà không có tiền cho tôi xuống tỉnh học, cha tôi
cho tôi ở nhà luôn, tôi không nhớ duyên cớ gì tôi lấy giấy học trò, viết mực
tím gửi cho cô So, đó là thơ tình, thứ tình như con nít chơi nhà chòi, làm đám
cưới, đi đám giỗ ... thư tôi nhờ chú út Thửng, nhà chú giữa trường học và nhà
tôi, trường học nay thầy giáo Chín đưa gia đình về ở phòng bên cạnh lớp. Chú Thửng
hơn tôi chừng 2 tuổi, chú không được thông minh, tôi nghĩ chú không đọc thư tôi
mới nhờ. Hôm sau, chú Thửng đưa lại cho tôi thư cô So, nay tôi không còn nhớ hết
cô đà viết chi trên tờ giấy học trò, mực tím, tôi chỉ nhớ lấy có một hàng quan
trọng: ‘‘...Em cũng thương anh, anh thương em thì để bụng, giấu kín đừng nói
cho ai biết hết nghe...’’ Tôi dấu kỷ lá thư ấy, dấu kỷ đến nổi tôi không nhớ nó
ở đâu và tôi làm y như lời cô So dặn, tôi không nói với ai hết, ngay với cô tôi
cũng chẳng nói thêm tiếng nào.
Sau nầy lên Sàigòn học, cuối năm đầu tiên ấy, Tâm và tôi đi
đến quê cô, tận bến đò Bà Vệ ở Kiến An, Chợ Mới, ngủ lại đó đêm mồng một tết,
tôi cũng chẳng nói được với cô ta lời nào. Sao nầy nghe nói cô làm cô giáo, lập
gia đình với một thầy giáo. Năm 1986, hơn 30 năm sau, có dịp đi huyện Chợ Mới,
tôi lại ghé thăm thầy Chín, thím chỉ lên bàn thờ, bảo thầy chết vừa mới mãn
tang. Thầy không dạy tôi, tưởng tình bạn vong niên với cha tôi, tôi thắp hương
lạy thầy.
Rồi cô giáo So cùng với con ở đâu gần đó về nhà thăm mẹ, thấy
tôi khách, cô cuối đầu chào, tôi cũng cuối đầu chào lại. Cô nói thêm với thím
giáo vài câu rồi đi ra. Tôi ngồi nán lại một chốc rồi xin phép ra về, từ nhà ấy
ra ngõ, tôi thấy cô giáo So đứng ở cửa hông nhà bên cạnh, có nhìn thấy tôi, chẳng
ai nói tiếng nào, thật tôi đã làm đúng lời cô dặn năm xưa:‘’ Thương em thì để bụng
‘’.
Năm 1954, cha tôi qua đời, anh tôi ở Pháp viết thừ về, nhờ
chú giúp dùm tôi đi học, do đó tôi lên Châu Đốc vào học Trường Nam Tiểu Học, lớp
nhì với thầy Lê Quang Điện, lớp Nhì H của chúng tôi ở dãi lớp lợp lá, vách lá,
nền đất, phía tay phải cuối đằng xa là Trường Trung Học Thủ Khoa Nghĩa, có lớp
Nhứt gần đó, thầy Châu Văn Tính dạy, con gái thầy thi rớt vào Đệ Thất, nên thầy
cho cô Dung học chung với con trai của lớp thầy, như thế năm ấy trường có một
bóng hồng. Thầy Châu Văn Tính có một người con trai sau hy sinh vì tổ quốc, người
ta lấy tên anh đặt cho tên trại Lực Lượng Đặc Biệt trên đường Trần Quốc Toản, gần
Trường đua ngựa đó là Trại Châu Minh Kiến. Thầy dạy vở lòng của tôi, thầy Lê
Văn Thọ cũng dạy lớp nhì F trường đó.
Từ đó tôi xa ngôi trường học vở lòng, xa ngôi trường làng,
những lần về quê, khi đi ngang ngôi trường thuở ấu thơ, tôi nhớ tới nhiều người
bạn học, Ngát cháu ngoại của cô tôi đã ra người thiên cổ được mấy năm rồi, cô Dậu,
xẩm rất xinh, con chú chệt Soạn, chú chạy xe đạp rao bán thịt heo trong làng,
chú ở gần nhà Cô tôi, xa trường nên cùng với cháu Ngát, trưa về nhà tôi ăn cơm
rồi leo lên võng ngủ một giấc, thức dậy lại đi học buổi chiều. Nhớ lại hồi đó
chú thím Tư Soạn có con gái lớn là Chị Muối đã đến tuổi lấy chồng, mấy người
hàng xóm chỗ tôi hay đùa chú với giọng Chệt nói tiếng Việt : ‘’ Con bà cũng lứn
dồi, gã cho thàng ló thì cũng xừng ‘’ ( Con bà cũng lớn rồi, gã cho thằng đó
thì cũng xứng), hay ‘’ Cái đồn đó đông thật là đông ‘’, chú Tư nghe người ta
nhái giọng thì cười chớ không giận, người ta hỏi sao chú không giận hờn chi hết,
chú trả lời : ‘‘ - Há ngộ dận làm chi ? Lể ngộ bán thịt kiếm tiền mua gạo
mà! Bở nào ló mua, bớt ló một miếng thịt hà !’’. Chú thím Tư Soạn đã chết
từ lâu, cô Dậu đã lấy chồng, đã nhiều năm không gặp lại cô ấy, chắc cháu nội
ngoại nay cũng đã nhiều.
Những khi có ca sĩ hát : ‘’ Trường làng tôi, cây xanh lá vây
quanh. Muôn chim hót vang lên trên cành ..., luôn luôn làm cho tôi nhớ tới ngôi
trường tôi đã học vở lòng hơn là ngôi trường làng gần nhà.
Qua bài hát nầy, tôi nghĩ những ngôi trường xưa, giữ biết
bao nhiêu tình cảm của thuở học trò, thật là đậm đà trinh trắng của tuổi thơ.
Tôi vào học, mấy ngày đầu bài toán nhân, chia tôi làm sai
bét, tôi quên hết cửu chương, chú tôi bắt học cửu chương đọc xuôi, đọc ngược, rồi
hỏi đâu trả lời đó, tháng đầu tôi đứng gần hạng bét, nhưng từ tháng thứ hai trở
đi tôi đã tiến bộ nhiều, vài tháng sau vị thứ tôi ở vào nhứt, nhì, ba, tư mà
thôi.
Một hôm, sáng sớm tôi sắp sửa đi học thì có tin báo cho biết
mẹ tôi đau nặng, bảo phải về gấp, chú tôi cho phép nghỉ học về thăm mẹ, hôm ấy
đi xe đò về Năng gù rồi cùng anh rễ tôi đi Long Xuyên từ Long Xuyên đi xe đạp
vào Vĩnh Chánh, đến nơi trời đã về chiều, gia đình đã đưa mẹ tôi đến ngôi chùa
làng, nơi ngày xưa mẹ tôi đã quy y, chị tôi bảo :
- Má chờ em đó, lại nằm với má đi!
Tôi đến nằm bên cạnh má tôi, nơi bộ ván ngựa trải manh đệm
kê ở hậu liêu của chùa, nhìn sang má tôi, người đã mê man rồi. Chị tôi lay gọi
:
- Má ơi má! Thằng Tông nó về nằm bên cạnh má đó!
Tôi chỉ nghe má tôi thốt giọng ư ư yếu ớt, cũng không mở mắt
nhìn ai nữa, đêm ấy mẹ tôi từ trần, người nhà nhìn đồng hồ treo trên cột bảo là
10 giờ. Tôi đã mất thêm mẹ, trở nên mồ côi từ năm 13 tuổi.
Trường Nam Tiểu Học, hồi đó có ba dãi xây tường lợp ngói, chỉ
riêng có dãi tôi học là lợp lá, nằm sát hàng rào, bên kia thuộc khu đồn trú của
quân đội, nhưng cách xa nên lau sậy mọc tràn lan, quanh năm không có bóng người.
Sân trường trồng những cây bả đậu, cây điệp loại cây to hoa tím nhỏ, ở chính giữa
bốn dãi lớp là cột cờ, mỗi ngày vào buổi sáng, học sinh đều phải xếp hàng chào
quốc kỳ, hát quốc ca rồi mới đi vào lớp, mỗi lần đến phiên trực, lớp tôi có Thu
đứng ra bắt nhịp cho học sinh cả trường hát quốc ca, về sau Thầy Điện tập cho
tôi bắt nhịp ở trong lớp vài lần, rồi bắt tôi ra bắt nhịp cho học sinh hát, từ
đó trở đi Thu và tôi thay phiên nhau bắt giọng và đánh nhịp : ‘’Nầy Công dân
ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng! Hai! Ba Tất cả học sinh theo đó đồng ca : Nầy
Công dân ơi ! Quốc gia đến ngày giải phóng....
Trong lớp, thỉnh thoảng Thầy dạy cho cả lớp cùng hát những
bài hát ngắn, nay tôi chỉ còn nhớ bài Lên Đường ‘’ Nào anh em ta cùng nhau xông
pha lên đường, kiếm nguồn tươi sáng, ta nguyền đồng lòng điểm tô non sông tự
nay ra sức anh tài, đoàn ta chen vai nề chi chông gai lên đường...’’
Và có một lần mỗi học sinh phải làm một món thủ công, thầy
chấm điểm sau đó tất cả những thủ công có điểm cao của tất cả các lớp, đem tới
Phòng Thông Tin để triển lãm, tôi được triểm lãm thủ công con trâu nắn đất sét.
Ngày nay lớp nầy tôi chỉ còn nhớ có Tỏ ở đâu Bình Di Bắc Nam
chi đó, gần biên giới Miên xuống học, có Lê Quang Nản con của Thầy Điện.
Trường ở tại tỉnh lỵ, nhưng có những học sinh từ Núi Sam, từ
Mỹ Đức, từ Cồn Tiên bên kia sông phía trước chợ Châu Đốc đến học, phía Cồn Tiên
là làng Khánh Hậu hình như quê của nữ nghệ sĩ Bạch Tuyết ở đó, còn ở chỗ bến Bắc
đi sang bên kia là Châu Giang, nơi đó là làng Chăm, không có người sang học ở
Châu Đốc, làng Chăm đó tôi không hiểu sao họ lưu lạc đến đó và lập nghiệp
từ bao giờ. Hồi nhỏ, có mấy người làm nghề đánh cá, vào khoảng tháng Ba tháng
Tư họ hay đi chài vùng sông chỗ tôi, chiều họ về đậu bến sông và hay lên nhà
tôi chơi, tôi còn nhớ có anh Ali và Ama cũng còn nhỏ tuổi, anh tôi xin anh Ali
dạy gồng, anh ta dạy anh tôi ngồi và luyện chi đó, tôi nghe anh tôi tập thở phì
phò, chỉ có vậy mà thôi.
Sau họ không chài cá nữa, nhưng mỗi năm có người đàn bà Chăm
tôi gọi là Bác Tư, cứ mấy ngày tết là xuống thăm cha mẹ tôi, Bác ấy ở đó chơi
vài hôm mới về, khách tới thăm chơi trong nhà phải cơm nước, khi Bác Tư về mẹ
tôi cho bánh tét, bánh phồng, trà mứt và gạo nữa, cho đến năm nào đó, cha tôi
nói chi tôi không rõ, bác khóc với mẹ tôi và nói sẽ không xuống nữa, từ đó tôi
không thấy Bác Tư Chà trở lại. Có khi tôi muốn tìm thăm Bác Tư Chà và anh Ama
hay Ali nhưng tôi không biết nhà bác chỗ nào bên làng Châu Giang.
Sang năm sau tôi lên lớp Nhứt E, học với Thầy Châu Văn Tính,
cuối năm có chụp hình nên tôi còn nhớ nhiều bạn học cùng lớp như Huỳnh Bảo Toàn
con chú tôi, Lê Văn Khá con thầy Thọ, Tiên, em của Tỉnh Trưởng, Châu Minh Quyền
con của Thầy Tính, Hồ Văn Tri và em ruột Hồ Văn Phú cùng học chung lớp nhà ở Mỹ
Đức, Đổng con chủ lò bún ở Đường Rầy Xe Lửa, Dễ, Bé ở khu Thánh Thất Cao
Đài. Có một anh chàng em của người tài xế xe Công Tạo chạy đường Châu Đốc
Sàigòn, sau anh ta là nhạc sĩ gặp tôi vài lần khi thang thang trên hè phố
Sàigòn, anh chàng Nu cao lêu nghêu nghe nói sau nầy làm ở Hội Việt Mỹ, và còn
nhiều người nữa tôi không thể nhớ hết vì ít khi gặp lại.
Học lớp Nhất E nầy, thầy Tính khuyến khích học sinh làm toán
cho nhanh, mỗi ngày đều có toán đố, 10 học sinh lên trước được thầy chấm, những
học sinh còn lại sẽ không được điểm, cho nên học sinh phải làm nhanh và
chạy cho lẹ, có hôm tôi đã vô ý nguyên bình mực tím đổ khắp quần áo bộ bà ba trắng
tôi mặc đi học, cũng vì muốn đi nhanh đem vở lên cho thầy.
Tôi hảnh diện vì được Thầy giao cho chép bảng những bài Cách
Trí, Địa Lý, Sử Ký cho những học sinh khác chép theo vì chữ tôi đẹp, thường những
bài luận của tôi Thầy cho tới 8 điểm, thầy sửa vài chỗ rồi lấy làm bài mẫu cho
học sinh, tôi còn hảnh diện với các học sinh cùng lớp vì cuối tuần thầy giao
cho tôi mang sổ về nhà cộng điểm, xếp hạng. Nhớ lại thuở nhỏ đó là vinh dự lớn
của người học trò, được thầy tín cẩn mới cho làm việc ấy.
Vì tôi đi học lại đã quá tuổi thi vào Trung Học, nên bác tôi
phải làm Thế Vì Khai Sinh cho tôi, tôi sinh năm 1941, nay phải sửa lại 1943 để
còn đủ tuổi thi vào Đệ Thất. Thế Vì Khai Sanh ấy giả nhưng mà nó là thật vì phải
Tòa Hòa Giải Rộng Quyền ở Cần Thơ ký vào sổ bộ, nó thật nhưng mà giả vì ngày
sinh tháng đẻ của tôi nào phải vậy. Chiến tranh vì học hành, thi cử vì trốn
lính nhiều người phải làm giấy tờ giả vài tuổi cho đến 10 tuổi. Rồi sau nầy
không còn chiến tranh, nhưng để thoát khỏi chế độ Cộng sản người ta phải làm giấy
tờ giả, anh chị giả làm cha mẹ, em út thành ra con cái, tuổi trẻ hóa già, tuổi
lớn hóa nhỏ...
Ở Châu Đốc, có những hôm muốn đi núi chơi, chúng tôi học
sinh rủ nhau vài người, ra chợ mua vài ổ bánh mì, vài hộp cá mòi mang theo ăn,
hoặc mua một nải chuối già với một hai cân khoai mì mang theo ăn. Ngày đó,
chúng tôi đã được dạy hát bài Suy tôn Thủ Tướng Ngô Đình Điệm: ‘’Ai bao năm từng
lê gót nơi quê người, cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do ... Ngô Thủ Tướng!
Ngô Thủ Tướng muôn năm! Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Thủ Tướng. Thời đó học trò
chúng tôi sửa lại : Khoai mì chuối! Khoai mì chuối muôn năm! Toàn dân Việt Nam
nhớ ơn khoai mì chuối ‘’. Sáng sớm đi, chừng một giờ đồng hồ vào tới chân núi
Sam, ngày xưa hai bên lộ không có nhà cửa, nhìn hai bên đồng mông hiu quạnh,
nhìn chẳng xa chi lắm là kinh Vĩnh Tế do ông Thoại Ngọc Hầu trong nom dân phu
đào cập theo ranh giới Việt Miên, từ Châu Đốc sang tới Hà Tiên
Trong khuôn viên lăng mộ Thoại Ngọc Hầu
Khi vào tới chân núi là gặp ngay chùa Tây An, nơi đó có ngôi
mộ của Đức Phật Thầy, rẽ tay phải sẽ đến miễu bà Chúa Xứ, nằm bên tay phải, xế
đó bên tay trái là lăng của Thoại Ngọc Hầu, nơi đây trong khuôn viên lăng có mộ
của mười mấy người, ấy là những đào kép hát, hình như họ bị bức tử chôn theo
Thoại Ngọc Hầu. Nếu đi nữa sẽ tới Bạch Vân Tịnh Xá, nơi đây có tượng Phật ngồi
tham thiền, từ đây có đường leo lên đỉnh núi, nếu đi nữa sẽ tới chùa hang cũng
có đường lên núi. Nhưng nếu từ Châu Đốc vào rẽ trái một khoảng sẽ có đường đi
lên đỉnh núi, ngày xưa Pháp làm cho xe hơi chạy lên tận đỉnh, đường cho xe quan
chạy nên có tên là Đường Quan, cũng như trước dinh tỉnh trưởng, có chiếc cầu sắt
bắc ra sông cho tàu của quan đậu, gọi là Cầu Quan, trên đỉnh có một ngôi nhà
xây người ta gọi là pháo đài, dùng để canh gác, lúc tôi đến đó, tôi nghĩ có lẽ
là nhà nghỉ mát, trên đỉnh cao, gió thổi lồng lộng. Lên đến đây bày thức ăn ra
ăn, rồi ngã lưng nằm, ngủ một giấc thoải mái, đến gần chiều từ từ theo đường
quan xuống núi, đường tuy xa nhưng dễ đi và không nguy hiểm, vì không phải leo
trèo qua những vồ đá cheo leo.
Ở Chợ Châu Đốc, có một món ăn rất nổi tiếng gọi là Bún Nước
Lèo, ăn mới biết hương vị, hình như đó là món ăn của người Chăm hay người Miên
chớ không phải của người Việt. Còn người Việt thì có đặc sản Mắm Thái, mắm thái
là mắm con cá lóc, sau khi làm mắm, người ta xắt thịt con mắm cá lóc thành từng
sợi nhỏ bằng đầu đủa ăn, rồi trộn với đu đủ, gừng, ớt, tỏi. Khi ăn chúng ta cuốn
với cải xà lách, kèm thêm thịt ba rọi luộc xắt lát mỏng, thêm bún, khế, chuối
chát, gừng, ớt xắt lát. Chúng ta có đủ hương vị : cay, nồng, béo, chua, chát, mặn,
ngọt. Còn Mắm Ruột là làm từ ruột cá lóc, vì ruột thì ít cho nên hiếm, giá đắt.
Tại trung tâm tỉnh lỵ Châu Đốc, còn có một cây Bồ Đề chánh gốc
Bồ Đề Đạo Tràng Ấn Độ, nơi đức Phật đã thành đạo, Hội Thông Thiên Học Quốc Tế
trụ sở tại Ấn Độ, Hội ấy tặng cho ông Phạm Ngọc Đa, Hội Trưởng Hội Thông Thiên
Học Việt Nam, Hiệu Trưởng đầu tiên của Thủ Khoa Nghĩa, ông được Tỉnh Trưởng cấp
đất nên hạ thổ trồng vào năm 1952.
Cuối năm học, tôi đứng hạng nhất của lớp, ngày phát thưởng tổ
chức tại rạp hát Lạc Thanh, rạp duy nhất của tỉnh, nằm ngay tại đầu chợ. Phần
thưởng tôi lãnh được quyển Việt Nam Tự Điển, sách Văn Phạm của Trần Trọng Kim
...
Thầy Châu Văn Tính là thầy giáo dạy rất giỏi, có lương tâm
chức nghiệp, sau thầy làm Hiệu Trưởng trường đó rồi làm Thanh Tra học chánh tỉnh
Châu Đốc. Khi về hưu, Thầy mua nhà trong cư xá Lữ Gia, tôi có đến thăm thầy một
lần.
Gần cuối năm học lớp Nhất, một hôm chú kêu tôi hỏi :
’’ - Người ta nói nhất nghệ tinh nhất thân vinh, chú
muốn cho con học trường Bách Nghệ ở Sàigòn, con có chịu không ? ‘’
Tôi nhớ trong năm mình có làm bài luận, Nhất nghệ tinh nhất
thân vinh, nhưng lúc nầy, tôi đâu cần chi hơn là được đi Sàigòn học, nên tôi chịu
liền. Chú tôi viết thư xin cho tôi dự thi, nộp giấy thế vì khai sinh..., sau đó
trường Cao Thắng gửi thư cho chú tôi biết ngày và nơi thi, yêu cầu gần đến ngày
thi, tôi lên trường Cao Thắng số 65 Đỗ Hữu Vị lấy phiếu báo danh.
Tôi mong nhanh chóng tới ngày thi vào Cao Thắng, năm 1948
hay 1949, tôi có lên Sàigòn một lần, ở nhà thuốc Nhành Mai nơi anh tôi
làm việc ở đó, vào khoảng tháng 8 ta. Tôi còn nhớ, đêm Trung Thu con gái ông chủ
nhà thuốc Nhành Mai gọi tôi lên lầu, chị đưa bánh Trung Thu cho tôi ăn, ban
ngày tôi và một thằng bé cháu ông chủ Nhành Mai, đi quanh đó lượm nút chai, đến
bến xe đò xem xe chở khách, Sàigòn với cyclo, xe điện với đèn xanh, đèn đỏ muôn
màu, lôi cuốn tôi lúc tuổi còn thơ.
Khi thi tuyển vào Trung Học Thủ Khoa Nghĩa, tôi làm trật hết
cả 2 bài toán, nhưng nhờ bài Luận văn và Câu Hỏi Thường Thức, tôi đậu hạng
51/300 học sinh trúng tuyển. Bé người đứng hạnh nhì trong lớp, đậu thủ khoa,
Toàn con chú tôi đậu hạng 36.
Sắp đến ngày thi vào Trường Cao Thắng, chú tôi bảo cho đi
thi, có thi rớt cũng như thưởng cho tôi một chuyến đi chơi ở Sàigòn.
Năm 1956, thi tuyển vào Cao Thắng, tôi dự thi tại trường Nữ
Trung Học Gia Long với 3000 sĩ tử. Buổi trưa đi bộ xuống chợ Sàigòn ăn cơm, ăn
xong trở lại vườn Tao Đàn nằm nghỉ chờ tới chiều thi lại, nằm trên băng đá vườn
Tao Đàn tôi nhớ tới Thằng Được, Thằng Bỉ trong tiểu thuyết Cay Đắng Mùi Đời của
Hồ Biểu Chánh.
Thi xong về nhà, tôi được chú cho biết nhà trường thưởng cho
tôi một chuyến đi Vũng Tàu 21 ngày, thế là tôi làm giấy tờ rồi vài hôm sau đi,
từ các tỉnh, học sinh lên Sàigòn tập trung ở Trường Tiểu Học Lê Văn Duyệt ngủ một
đêm, hôm sau mới lên đường ra Vũng Tàu.
Trại do Thanh Tra Xường ở Vĩnh Long làm Trại trưởng, mỗi tỉnh
cử 2 thầy hay cô giáo dạy thể dục thể thao đi theo, năm đó bộ Giáo Dục mua 2
dãi nhà của người Pháp, lập nhà nghỉ của học sinh, nó nằm trên đường đi Bãi Sau
cách chợ Vũng Tàu chừng 300 thước, cách bờ biển cũng chừng 200 thước, nơi đó
cũng là trung tâm thành phố.
Học sinh chia thành từng Đội, đội chúng tôi là nhóm học sinh
Châu Đốc với Học Sinh Chu Văn An Sàigòn, nói chung trại sinh tuổi từ 8 cho đến
16 hay 17, trai có, gái có, giàu nghèo đều có, ai học giỏi đi khỏi đóng tiền,
còn những học sinh khác đi Trại phải trả chi phí mất 800 đồng.
Sinh hoạt của trại thì ngày ăn ba bửa, đi tắm biển thường
xuyên, đi tham quan đèn pha trên đỉnh núi, đền thờ cá ông, xuống tàu Hải Quân
đi Cần Giờ nhưng mới ra khơi nhiều người say sóng, tàu đành quay trở lại.
Trại sinh tất cả khoảng trên 300, 2 dãi nhà ấy mỗi nhà gồm
hai tầng, mỗi tầng phải kê giường chồng mới đủ chỗ nằm, có những cậu còn nhỏ
ban đêm ngủ mớ còn gọi Má ơi! Má ơi! Có cậu ngủ nữa đêm thức dậy la lối om xòm
vì cậu nằm trên tè xuống !
Một hôm cũng gần đến ngày về, buổi sáng điểm danh mất hết
hai trại sinh 9, 10 tuổi, có người cho biết hai cậu ấy nhớ nhà quá, tối cứ khóc
nhớ mẹ, trại đi báo bót Cảnh Sát, cách đó chừng 100 thước, rồi trại sinh theo
chương trình sinh hoạt trong ngày, chẳng ngờ đến 3 giờ chiều, hai cậu bé được Cảnh
sát mang giao lại cho Trại, chúng đã trốn lên xe đò về tới Biên Hòa bị Cảnh Sát
chận lại gửi trả về cho trại. Tội nghiệp cho hai cậu bé, thầy cô phải khuyên
nhũ và an ủi.
Thi vào Trường Cao Thắng, tôi chỉ làm trúng có một bài toán,
tôi nghĩ là mình thi rớt rồi, có bị rớt, tôi vẫn được học ở Thủ Khoa Nghĩa, hạng
51 vẫn có học bổng.
Trại Hè Vũng Tàu chấm dứt, về lại Trường Lê Văn Duyệt nghỉ tạm,
tôi đi xe buýt vào Chợ Lớn thăm chị ruột tôi ở đó, chị ấy cho biết tôi đã thi đậu,
chuyến về tôi mới cuốc bộ từ Bùng Binh Sàigòn đến Trường Cao Thắng để xem kết
quả, tôi thấy tên mình ở hạng 132 trong 250 học sinh được trúng tuyển. Dù vậy
tôi không biết chú tôi có cho tôi đi học ở Sàigòn không? Cuối cùng chú tôi quyết
định cho tôi đi học ở Sàigòn.
Từ đó tôi xa Châu Đốc, sau nầy mỗi lần về thăm nhà, ban đêm
tôi thích ra ngồi cầu tàu trước chợ Châu Đốc, để nhìn xuống lòng sông, ghe, xuồng
qua lại, nhìn qua bên kia Cồn Tiên, bên nọ Châu Giang, và nhất là tại chỗ đó
tôi hiểu được câu Ca dao :
Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc,
Gió nào độc cho bằng gió Gò Công.
Đình Châu Phú thờ Chưởng binh Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh
Đêm tĩnh mịch thức giấc, thỉnh thoảng nghe tiếng trống điểm
canh đêm đêm của nhà việc Châu Phú. Tiếng trống thường gợi cho chúng ta nhớ đến
thời xa xưa, đến người của những năm tháng cũ. Chú tôi, thầy tôi nay yên giấc
đã nhiều. Có ai về Châu Đốc, xin cho tôi nhắn hỏi: - Tiếng trống sang
canh còn đó hay không ?
Trích “Trường Tôi”