Lương Thư Trung
Thử đọc lại những trang
bút ký của Lưu Nhơn Nghĩa
Nhà văn Lưu Nhơn Nghĩa sanh
năm 1941tại xóm Tà-Păng-Flức, sóc Ô-Thôm, xã Ô-Lâm, thuộc quận Tri Tôn (Xà
Tón), tỉnh Châu Đốc. Nội ngoại đều gốc Triều Châu. Mồ mả tổ đường bên phủ Triều
Châu, gần Xua-Tháo (Sán Đầu) Phong Khê, Lưu cấp thủy, nơi đó có tháp Cấp thủỵ.
Thuở nhỏ học Sơ học tại trường Đình ở Xà Tón tới hết lớp Ba, năm 1952, vì thời
loạn lạc, có khi ra Mỹ Đức học tư ở Miễu Điền, rồi về học lại trường Đình. Sau
khi học hết lớp Ba ở trường Đình, anh được gia đình cho ra Châu Đốc tiếp tục học
lớp Nhì, lớp Nhứt. Khi lên trung học, anh thi vào lớp Đệ Thất trường trung học
công lập Thủ Khoa Nghĩa, Châu Đốc, và cuối năm 1958, Thủ Khoa Nghĩa không nhận
anh vào lớp Đệ Tam vì thi rớt bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp (THĐNC).
Từ đó, anh phải lao đao lên
Sài Gòn tìm trường tư học tiếp và anh theo học lớp Đệ Tam ban B tại trường
Hoàng Việt ở đường Phan Đình Phùng. Sở dĩ anh chọn học ban B vì anh hy vọng khá
toán để thi lại bằng THĐNC. Nhưng cả năm lần vào trường thi các niên khoá 1959,
1960 và 1961, anh đều bị rớt bằng trung học, kể cả khoá hai,,năm 1961, tại hội
đồng thi Long Xuyên anh cũng dự thi lấy bằng này cho vừa lòng gia đình, nhưng
anh không theo dõi kết quả vì biết chắc là rớt . Năm này, anh học lớp Đệ Nhị
ban C trường trung học tư thục Hàn Thuyên. May sao, sau khi nạp đơn xong ở Long
Xuyên, để thi lại bằng THĐNC, anh trở lên Sài Gòn và có kết quả Tú Tài 1.
Năm 1961, cả Sài Gòn chỉ có bốn
trường có lớp Đệ Nhứt ban C, đó là các trường Gia Long, Petrus Ký, Chu Văn An
và Trưng Vương. Các trường tư không có lớp Đệ Nhứt C vì không đủ học sinh . May
sao, năm 1961, trường trung học Hồ Ngọc Cẩn ở Gia Định có mở lớp Đệ Nhứt C,
dành cho dân lục tỉnh lên, anh ghi danh và theo học lớp Đệ Nhứt C trường Hồ Ngọc
Cẩn .
Hết bậc trung học, anh theo học
trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn ban Anh văn niên khóa 1966-1969. (năm 1966, là
năm Đại Học Sư Phạm Sài Gòn bắt đầu mở khóa Dự Bị Đại Học Văn Khoa hay Khoa Học
+ 3 năm, tất cả là 4 năm), ra trường ngạch giáo sư đệ nhị cấp và chọn nhiệm sở
Củ Chi. Năm 1970, đang đi dạy bị động viên bất ngờ và theo học khoá 4/70 Sĩ
Quan Trừ Bị Thủ Đức. Sau lại được biệt phái trở về ngành giáo dục và dạy ở
Sóc Trăng. Theo “Thất Sơn Châu Đốc”, anh còn là giáo sư ở New Zealand và
Brisbane (Úc Đại Lợi). Năm 2007, anh còn là Hiệu Trưởng trường Việt Ngữ ở
Brisbane trước khi vào bệnh viện Brisbane PA Hospital (Úc Đại Lợi) để trị căn bịnh
ung thư máu ở thời kỳ chót. Anh Lưu Nhơn Nghĩa mất vào lúc 4 giờ sang ngày 27
tháng 9 năm 2007 (nhằm ngày 17 tháng 8 âm lịch, năm Đinh Hợi), hưởng thọ 67 tuổi
và để lại cho đời các tác phẩm Như Cánh Chuồn Chuồn, Con Đường Cũ và 64 bài Bút
Ký (1).
Tất cả 64 bài Bút Ký này anh
viết trong khoảng thời gian từ ngày 06 tháng 4 năm 2005 đến những ngày gần cuối
đời, 30 tháng 8 năm 2007. Riêng năm 2007, từ ngày 18 tháng 01 năm 2007 đến
cuối tháng 8 năm 2007, tức những ngày nằm bịnh viện, dù biết trước là mình
không thể sống được lâu thêm, nhưng anh vẫn bình tâm và đã cố gắng nhớ lại và
viết được 16 bài. Điều đó cho chúng ta thấy tấm lòng của anh muốn để lại cho đời
những trang bút ký mà anh hằng ấp ủ …
Cuốn “Như Cánh Chuồn Chuồn”
dày 415 trang, bao gồm các bài giới thiệu của nhà xuất bản, các bài nhận
xét của các tác giả Phạm Thăng, Áo Lục, Phù Vân về cuốn sách; riêng anh
Lưu Nhơn Nghĩa có riêng cho mình 369 trang sách kể lại những mảnh đời qua những
thời kỳ …Cuốn “Con Đường Cũ” là một bút ký ghi lại chuyến về thăm lại Xà Tón của
tác giả vào cuối năm 2000 và được cập nhật ngày 10 tháng 10 năm 2006, gồm 19 phần,
tác giả đã mang lại cho người đọc một cái nhìn mới về xứ sở của mình sau 25 năm
xa xứ. Riêng 64 bài “Bút Ký” viết từ tháng 4 năm 2005 cho tới những ngày cuối
tháng 8, anh đã phác thảo một bức tranh xã hội, không chỉ riêng cái xứ Xà Tón của
anh mà còn bao quát cái nếp sinh hoạt của miền Nam Việt Nam mà Sài Gòn là một
tiêu biểu .
Chẳng những tác giả là người
trong cuộc với một vốn sống và trãi nghiệm vô cùng phong phú, Lưu Nhơn Nghĩa
còn là một chứng nhân của thời đại, nên những trang sách của Lưu Nhơn Nghĩa
không chỉ là những chuyện kể rất nhiều chi tiết xác thực mà nó còn là bức tranh
muôn màu muôn vẻ của thời đại mà anh sống. Với óc quan sát tinh tế và bén
nhạy, không việc gì dù nhỏ mà lọt qua khỏi cái nhìn của tác giả. Từ cái phù hiệu
của trường tới cái mảnh bằng thi hoài không đậu, từ tô bún nước lèo tới xề bánh
hỏi, từ cây tầm đo đất tới cái lòng tham của chủ điền, từ cái nét đặc thù
của mỗi nền văn hóa của các sắc dân Việt, Miên, Tàu cho đến cách ăn
chay của dân chúng tu theo đạo Tứ Ân, từ cách dạy học trò phải đánh bằng roi
mây với lối dạy học bằng những lời dịu ngọt . Và còn nhiều lắm, nhất nhất tác
giả đã mang đến cho người đọc không chỉ là những “chuyện hàng xóm” mà nó còn phản
ảnh cả một thời đại dài gần trăm năm, qua các giai đoạn thanh bình, rồi tản cư
loạn lạc cùng những ưu và khuyết điểm của mỗi thời kỳ lịch sử mà tác giả đề cập
đến.
Thử lấy một trang bút ký “Lải
Nhải Đời Tôi 1959-1969”, tác giả viết ngày 15 tháng 01 năm 2007, là một toàn cảnh
của Sài Gòn với 10 năm tiêu biểu ấy . Mười năm kể từ ngày anh phải xa trường Thủ
Khoa Nghĩa vì Thủ Khoa Nghĩa khước từ anh, là những năm tháng anh long đong
trên mảnh đất Sài Gòn . Tác giả viết “năm 1958, dân Sài Gòn đã quen tên đường bằng
tiếng Việt” mà trước đó vài năm người ta vẫn quen gọi tên đường bằng tiếng Tây.
Rồi nào là các loại xe ở Sài Gòn vào mấy năm đầu thập niên 60 này như xe
gắn máy Mobylette, Sach, Velo Solex, Globel, Puch và cả loại xe Taxi hiệu
Renault nhỏ với lời tự sự mà học trò lúc bấy giờ học thuộc lòng “ai bốn máy bon
bon đường nhựa, ai năm tôn chất chứa bao người”. Các thay đổi trong sinh
hoạt hằng ngày càng về sau càng gấp gáp với nhịp độ văn minh vật chất du nhập
vào miền Nam lúc bấy giờ. Rồi tác giả cho chúng ta thấy thời thanh bình của Sài
Gòn kéo dài từ 1954, ngưng chiến, cho đến tháng 01 năm 1961 nghe tin có đảo
chánh. Những sự kiện như “bắt đầu kiểm tra trưng binh, ngoài thẻ căn cước,
thanh niên phải có thêm giấy “Tình trạng hợp lệ quân dịch và thẻ cử tri đi bầu”.
Trước cuộc đảo chánh 11/63, Sài Gòn ngột ngạt với các phong trào đấu
tranh Phật Giáo, biểu tình, tự thiêu là những hình thức khá phổ quát thời kỳ
này . Sau cuộc đảo chánh 11/63, không khí nhẹ thở hơn. Sinh viên hoạt động rầm
rộ với các cuộc bầu bán sôi nổi đôi lúc dẫn đến việc ám sát chết người như trường
hợp Lê Khắc Sinh Nhựt. Năm 1965, đợt xe Honda 50cc dầu tiên nhập cảng vào Việt
Nam cũng được tác giả nhắc đến như một dấu tích xe Nhựt tràn vào Sài Gòn lúc bấy
giờ . Văn học Nghệ thuật trong giai đoạn này cũng được tác giả nhận xét là nó
còn trong vòng ảnh hưởng các nhà văn ngoài Bắc di cư năm 1954. Rồi xe “Honda
ôm” xuất hiện năm nào, tác giả không bỏ sót … Theo làn sóng binh lính Mỹ đổ vào
miền Nam, các bar giải trí cho lính Mỹ mọc lên đầy khắp, trong đó có Sài Gòn .
Ngoài ra, phong trào nuôi chim cúc vào khoảng năm 1968, 1969 với cái đau của
dân mình bị gạt cũng là cái nét tác giả khó quên trên trang bút ký của mình … Đặc
biệt, ‘cùng lúc với Việt Nam hóa chiến tranh, sau trận Tết Mậu Thân, nhạc
Trịnh Công Sơn đáp ứng nhu cầu chán chiến tranh, quán cà phê mọc lên” cũng là một
nét ghi khác của SàiGòn nói riêng và miền Nam nói chung, đã làm cho những trang
bút ký của tác giả thật đầy đặn.
Qua những trang bút ký “Lải
Nhải Đời Tôi 1959-1969”, theo tôi, không còn đơn thuần là “chuyện hàng xóm” nữa
rồi, mà chính đây là dấu tích của một thời kỳ lịch sử được tác giả cô động lại
trong vòng 3 trang giấy, quả là một nghệ thuật viết bút ký tuyệt diệu mà không
phải ai ngồi xuống cầm cây viết là viết ngay được !!! Đọc lại những trang
bút ký của anh Lưu Nhơn Nghĩa, tôi biết anh muốn lồng vào những dòng chữ miên
man bất tận ấy là bong dáng của xã hội mà anh đã sanh ra và lớn lên ở đó với
cái nhìn trung thực của một chứng nhân …
Trong bài viết “Thi văn với
thời đại”, Phan Khôi có viết:”Một bài thi, một bài văn, hay một tập thi, một
tập văn mà làm cho người ta qúy trọng và lưu truyền được là nhờ có đặc sắc về
hai đường: một là về đường mỹ thuật, hai là về đường lịch sử . Đặc sắc về mỹ
thuật, nghĩa là thơ văn ấy hoặc tả cảnh hay, hoặc tả tình hay, đũ làm cho kẻ đọc
đến mà sanh cảm, cũng như trong khi xem bức vẽ hoặc xem một tấn tuồng mà giục nỗi
vui buồn . Đặc sắc về lịch sử nghĩa là trong thi văn có lưu lại những cái dấu vết
của xã hội đồng thời với tác giả; đời sau đọc đến có thể nhờ đó mà nhận ra cuộc
đời hồi ấy hoặc ít hoặc nhiều, có thể đem thi văn ấy mà đối chứng với những điều
nghi ngờ trong lịch sử . Từ xưa đến nay, những tay văn hào bất tử, thường là gồm
cả hai mặt đó … Được một người văn nhơn có quan hệ với thời đại là qúy lắm;
cùng không nữa thì được một bài thơ hoặc một bài văn có quan hệ với thời đại
cũng là qúy vì những thơ văn ấy có bổ ích cho nhà sử học về sau, giá trị của nó
không biết là bao .”(2).
Theo thiển ý của tôi, những
trang sách và bút ký của anh Lưu Nhơn Nghĩa đã để lại cho người đọc hôm nay và
đời sau quả là những trang “thi văn với thời đại” vô cùng quý báu theo
như lời nhận định của Phan tiên sinh, cách nay tròn 79 năm !!! Do vậy, những
anh em thân hữu còn thương tưởng anh Lưu Nhơn Nghĩa, tôi nghĩ, không gì bằng
chúng ta bình tâm ngồi đọc lại văn anh để không phụ lòng anh về những gì anh muốn
gởi lại cho đời …Phải thế không anh Lưu Nhơn Nghĩa !?!
Houston ngày 09 tháng
10 năm 2007
Phụ chú :
1/ “Như Cánh Chuồn Chuồn” của Phong Hưng Lưu Nhơn
Nghĩa, chùa Viên Giác xuất bản, Cộng Hòa Liên Bang Đức, năm 2001
“Con Đường Cũ” của Lưu
Nhơn Nghĩa, Thất Sơn Châu Đốc (Hoa Kỳ) thực hiện bản điện tử, ngày 10 tháng 10
năm 2006.
“Bút Ký” của Lưu
Nhơn Nghĩa, Thất Sơn Châu Đốc (Hoa Kỳ), từ 06 tháng 4 na9m 2005 đến ngày 30
tháng 8 năm 2007.
2/ “Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1928” do Lại Nguyên
Ân sưu tầm & biên soạn, nhà xuất bản Đà Nẵng, Việt Nam, năm 2003, trang 132
.