Lương thư Trung
Hạc, sếu và cò
Trong các loài chim lớn, có lẽ loài hạc
được nhắc đến nhiều trong cac áng văn từ xưa đến nay. Cac tac giả thường gọi
“crane” la` hạc như thầy Huyền Diệu trong cuốn “Khi hồng hạc bay về” (1)
; nhà văn Duy Lam viết một bài về “Tuổi hạc” cũng gọi “crane” là hạc
và “flamingo” là hồng hạc; rồi người ta cũng dịch cuốn “Thousand cranes”
của Kawabata Yasunari, giải Nobel văn chương năm 1968, là “Ngàn cánh hạc”
Trong khi đó, theo tự điển Anh Việt của
Viện Ngôn Ngữ Hà Nội (2) thì “crane” là sếu, “flamingo” là chim hồng hạc,
“stork” là cò. Dĩ nhiên ba giống chim này không thể cùng giống với nhau. Do vậy,
chúng có những đặc điểm gì để khi nhìn nó là người ta có thể nhận ra đâu là hạc,
đâu là sếu và đâu là cò?
Chim Hồng Hạc
nguồn: wikipedia.org
|
Được biết hạc còn gọi là Flamingo (3)
thuộc họ Phoenicopteridae, tên latin là Phoenicopterus. Trước đây, chúng được
tìm thấy cả hai vùng Tây và Đông bán cầu, nhưng một số khác được tìm thấy sau
này gồm chung 6 loại mà hai loại trong số này là Greater Flamingo và
Lesser Flamingo có mặt ở các vùng cựu lục địa và bốn loại còn lại thuộc về vùng
tân thế giới, được phân chia như sau:
- Greater Flamingo (Phoenicopterus
roseus) một phần tập trung ở Châu Phi, miền nam Âu Châu, Nam Á và Tây Nam Á
Châu.
- Lesser Flamingo (Phoenicopterus minor)
có mặt tại Phi Châu và chạy dài tới miền Tây Bắc Ấn Độ.
- Chilean Flamingo (Phoenicopterus
chilensis) ở về phía Nam của Nam Mỹ.
- James’s Flamingo (Phoenicopterus
jamesi) thường trú ngụ vùng cao của Andes ở Peru, Chile, Bolivia và Argentina.
- Andean Flamingo (Phoenicopterus
andinus) cũng ở những vùng giống James’s Flamingo thường ở.
- Caribean Flamingo (Phoenicopterus
ruber) chiếm lĩnh vùng biển Caribbean và hải đảo Galapagos
Trước nhất về thân hình, hạc mới nở
trong vòng một tháng tuổi thì mỏ nó thẳng và cẳng nó ngắn, lông có màu nâu. Khi
hạc lớn dần thì hình dạng lần lần thay đổi và khác hẳn lúc còn nhỏ. Sự tăng trưởng
của hạc làm cổ nó dài ra, cẳng nó cao, thay lông tơ và dần dần đối màu nhờ ăn
các chất rong tảo vùng nước mặn và những sinh vật nhỏ có vỏ cứng thịt mềm có
trong các vũng nước cạn có bùn như tôm tép sò cua. Lúc bấy giờ mỏ nó không còn
thẳng nữa. Ngay chóp mỏ co quặp lại như hình lưỡi câu và in đậm một
màu đen. Lông hạc ngả màu hồng lợt. Ở bên trong chót cánh có lớp lông màu đen.
Một vài đặc tính khác của hạc là chiều
cao của nó. Hồng hạc hay còn gọi hạc Mỹ châu có tên American flamingo
(Phoenicopterus ruber) nó cao 145 cm, trong khi đó hạc Chilean flamingo
(Phoenicopterus chilensis) cao 105 cm. Dĩ nhiên những con hạc mái thì nhỏ con
và thấp hơn.
Hạc Chilean
nguồn: wikipedia.org
|
Với Chilean flamingo thì tầm bay xa của
nó rất là xa; nó có thể bay xa tới 4.000 cây số trên vùng Andes và luôn
bay ở độ cao từ 3.000 m đến 4.500m. Nhưng người ta bắt gặp ở một phần lãnh thổ
của Argentina và vùng phía đông của vùng Andes thì loài hạc này bay thấp hơn. Ở
hồ Poopo thuộc Bolivian người ta ước lượng có 100.000 con hạc loại này. Trong
khi đó ở hồ Titicaca cũng thuộc Bolivian giáp với biên giới Péru có cả một vùng
trời đầy giống chim hạc này mà người ta gọi là quê hương của chúng.
Tiếng kêu của hạc Chilean cũng như
vài giống hạc khác giống như tiếng kêu của loài ngổng. Kêu to và khàn
khàn như xé không gian nhất là vào những lúc đêm khuya thanh vắng. Cả hai giống
hạc Chilean flamingo và American flamingo đều thuộc vào loại hạc lớn nhứt.
Ngoài ra có hai giống hạc nhỏ hơn cũng
thường sống trong vùng Andean thuộc Nam Mỹ có tên gọi là Andean flamingo
(Phoenicoparrus andinus) và James’s flamingo (Phoenicoparrus jamesi), một trong
hai giống này ngày nay đã gần như bị tuyệt chủng.
Thêm vào đó, còn có giống hạc khác có
tên gọi là Lesser flamingo (Phoeniconaias minor). Chúng sống ở vùng Nam Phi,
Madagascar, Ấn Độ. Chúng tụ họp thành đàn rất đông lên đến cả triệu con. Loại hạc
này chiều cao của nó khoảng 1 mét
Một đặc điểm khác của các loài hạc, đặc
biệt hạc Chilean flamingo không có màu vàng rõ rệt trên thân hình của nó, chỉ
có màu đỏ nơi đầu gối và lớp da chân của nó. Người ta còn tìm thấy chúng thích
làm ổ ngay trên bãi bùn. Chúng lấy chân và mỏ gom bùn lại cho cao cỡ vài
tấc khỏi mặt bùn và đẻ ngay trên đó và chỉ đẻ một trứng duy nhất với vỏ trứng
màu trắng. Sau khi đẻ trứng, như mọi giống chim khác, cả hai con hạc trống và
mái thay phiên nhau ấp trứng cho tới lúc trứng nở con. Thời gian từ khi trứng bắt
đầu được ấp cho đến lúc nở vào khoảng từ 27 đến 31 ngày tùy theo mùa mưa hay nắng.
Mùa mưa trứng lâu nở hơn mùa nắng.
Tóm lại, cho dù là giống hạc nào đi
chăng nữa, chúng có mấy nét chung giống nhau như hai cánh của chúng
người ta đo được từ 1 mét tới 1, 60 mét và mỗi chót cánh có 12 lông màu đen.
Chúng cân nặng trung bình từ 1, 5kg tới 4,1 kg với chiều cao trung bình từ
1 mét tới 1,4 mét. Chúng thường chỉ đẻ có một trứng duy nhất. Chiều dài trung
bình của mỗi trứng khoảng 78 mm tới 90mm và trọng lượng của mỗi trứng khoảng từ
115 gram tới 140 gram. Hạc con vừa mới nở cân nặng từ 73 gram tới 90 gram.
Đặc biệt về tuổi thọ của hạc, theo David
Alderton, giống hạc American Flamingo sống hơn 30 năm tại các vùng hoang dã.
Ngoài ra, theo vườn bách thú San Diego thì tuổi của hạc ở khoảng từ 20 tới 30
năm là thường; đôi khi tuổi thọ này kéo dài tới 50 năm nhưng không phải lúc nào
cũng dễ gặp những con hạc sống lâu như vậy.
Sếu tên gọi là Crane thuộc họ
Gruidae, tên khoa học là Grus. Sếu là loài chim cũng cao lớn như hạc nhưng hình
dáng và màu sắc rất khác xa với hạc. Một trong những đặc tính khác nhau ấy mà
người ta sẽ nhận ra ngay đó là cái mỏ của sếu dài, màu vàng và nhọn trong khi
đó mỏ hạc thì ngắn, chót mỏ màu đen và quặm xuống như lưỡi câu. Lông sếu màu
xám pha chút màu trắng ở hai bên má. Trên đầu sếu phía trên hai bên mắt thì màu
đỏ.
Những con sếu lúc còn nhỏ khoảng 2 tuổi
rưởi bộ lông của nó bắt đầu hiện rõ sắc màu của một con sếu lớn rồi nhưng lông
cổ và đầu cùng màu với lông trên mình nó: màu nâu chứ không có một chút màu đỏ
nào. Tuy nhiên, khi sếu lớn vì ăn những sinh vật có nhiều chất sắt nên màu lông
của chúng pha lẫn hai màu nâu và đỏ.
Florida
Sandhill Crane
nguồn: wikipedia.org
|
Sếu Sandhill Crane với tên
khoa học Grus canadensis thuộc loại chim thiên di. Chúng có chiều cao đo
được 122 cm. Chúng thường sinh sôi ven bờ biển Bắc Băng Dương và nhiều nhứt
vùng Đại hồ. Mùa đông chúng bay về miền nam Hoa Kỳ và Mễ Tây Cơ . Người ta bắt
gặp chúng cũng có mặt ở Florida và vùng biển Caribbean nữa. Như vậy chúng bay rất
xa từ Canada tới vùng biển Caribean để kiếm ăn.
Còn một loại sếu khác rất to lớn có tên
là Whooping crane mà tên khoa học là Grus americana. Chiều cao của chúng cao tới
2, 29 m (7feet 1/2). Loại sếu này người ta đã tìm thấy chúng ở vùng bắc Mỹ
Châu. Nhiều nhứt là vùng Wood Buffalo Park nối liền với hồ Great Slave bên
Canada. Khác với loài sếu Sandhill crane, Whooping crane có mặt màu đỏ, bộ lông
màu trắng, bên dưới chót cánh lông màu đen. Khi nó đứng, cánh xếp lại người ta
khó phân biệt được hai màu đen trắng này vì nó bị che khuất dưới lớp lông màu
trắng của bộ cánh. Khi gặp sếu mái, những chàng sếu trống xà đáp xuống và
cuối đầu như một lời chào với hai cánh buông thòng xuống làm thành một vũ
điệu tuyệt đẹp.
Thường chúng làm ổ vào đầu tháng năm. Ổ
được lót những gò đất bằng phẳng và chỉ đẻ có hai trứng màu sậm bùn. Trái lại sếu
Sandhill crane cũng chỉ đẻ có hai trứng nhưng trứng của chúng có vỏ màu nâu và
loài sếu này lại làm ổ trên cây cao hoặc trên những đụn cỏ dày. Loài sếu
Whooping crane này có tên gọi như thế vì tiếng gọi đàn rất lớn của chúng.
Ngoài ra, còn có loài sếu Úc châu
có tên khoa học Grus rubicunda, chúng sống ở Úc Đại Lợi và vùng Tân Guinea.
Riêng loài sếu chóp Grey Crowned Crane có tên khoa học là Balearica pavonina hầu
như chúng có mặt khắp châu Phi. Loài này đặc biệt có bộ lông màu xám. Hai cánh
phủ một lớp lông trắng pha màu vàng cam rất đẹp. Cổ nó cao vừa phải và trên đầu
có chóp màu đỏ lợt giống như bông mồng gà. Đầu nó có lông màu đen. Sau đuôi mắt
là hai má màu trắng với cái mỏ màu xám đậm dài chừng 4 cm tới 5 cm.
Loài sếu Sarus Crane (Grus Antigone) mà
thầy Huyền Diệu vừa nhắc, thường có mặt ở về phía bắc Ấn Độ, Népal, Đông Nam Á
và Queensland, Úc Đại Lợi. Đây là loài sếu có chiều cao tới 1,80 mét và cánh dài
2,50 mét. Loài sếu này sống thành từng nhóm nhỏ từ 2 đến 5 con và đẻ trứng từ 2
đến 3 trứng là nhiều.
Red-crowned
Crane
nguồn: wikipedia.org
|
Sếu Red-Crowned Crane (Grus Jalonensis)
cũng còn gọi Japanese Crane hoặc Manchurian Crane là một giống sếu lớn con và
nó được xếp vào hàng thứ nhì trong thế giới các loài sếu. Nó cao 1,40 mét (55
inches), có con sếu trống cân nặng tới 15 kg (33lbs), nó được xếp hạng cân nặng
nhất so với loài sếu. Sếu Sarus Crane được xếp làloài sếu lớn và cao
nhưng cũng chỉ cân nặng có 9 kg (3).
Vào mùa xuân và mùa hè, Red-crowned
Crane sống ở vùng Siberia với mùa đẻ trứng của nó. Thường chúng chỉ đẻ 2 trứng
mà thôi. Sang đến mùa thu, chúng bay về hướng Đại Hàn, Trung Hoa và các xứ khác
thuộc vùng Đông Á và ở mãi cho hết mùa đông. Hầu như các loài sếu này trú ngụ ở
Hokkaido (Japan) lâu hơn cả. Ngày nay người ta ước tính loài sếu này còn khoảng
1,700 con đến 2,000 con sống trong các vùng hoang dã.
Theo truyền thuyết của Nhựt, loài sếu
này còn gọi là “tancho” và họ cho rằng “Red- crowned Crane” sống tới 1,000 năm.
Trong khi đó, người Trung Hoa thì cho rằng loài “Red- crowned Crane” này là thần
tiên, là các bậc hiền triết và biểu hiệu cho sự trường sinh. Ở Trung Hoa, người
ta gọi “Red- crowned Crane” là “xian he” hay “Fairy Crane”.
Theo các nhà nghiên cứu về chim muông,
người ta phân loại sếu làm thành 15 loại có tên như sau:
- Common Crane, Grus grus, còn được biết
là giống Eurasian Crane
- Sandhill Crane, Grus canadensis
- Whooping Crane, Grus americana
- Sarus Crane, Grus antigone
- Brolga, Grua rubicunda
- Siberian Crane, Grus leucogeranus
- White-naped Crane, Grus vipio
- Hooded Crane, Grus monacha
- Black-necked Crane, Grus nigricollis
- Red-crowned Crane, Grus japonensis
- Blue Crane, Anthropoides paradisea
- Demoiselle Crane, Anthropoides virgo
- Black Crowned Crane, Balearica
pavonina
- Grey Crowned Crane, Balearica
regulorum
- Wattled Crane, Bugeranus carunculatus.
Còn “stork” lại là một giống cò. Chân của
chúng rất cao, cánh rộng, mỏ dài và thẳng. Đây là loài chim thuộc họ Ciconiidae
và nó giống như loài diệc. Loài stork này có tất cả 19 loại và được phân chia
thành 6 giống như sau:
Genus Mycteria
- Milky Stork (Mycteria cinerea)
- Yellow-billed Stork (Mycteria ibis)
- Painted Stork (Mycteria leucocephala)
- Wood Stork (Mycteria americana)
Genus Anastomus
- Asian Openbill Stork (Anastomus
oscitans)
- African Openbill Stork (Anastomus
lamelligerus)
Genus Ciconia
- Abdim’s Stork (Ciconia abdimii)
- Woolly-necked Stork (Ciconia
episcopus)
- Storm’s Stork (Ciconia stormi)
- Maguari Stork (Ciconia maguari)
- Oriental White Stork (Ciconia
boyciana)
- White Stork (Ciconia ciconia)
- Black Stork (Ciconia nigra)
Genus Ephippiorhynchus
- Black- necked Stork (Ephippiorhynchus
asiaticus)
- Saddle-billed Stork (Ephippiorhynchus
senegalensis)
Genus Jabiru
- Jabiru (Jabiru mycteria)
Gerus Leptoptilos
- Lesser Adjustant (Leptoptilos
javanicus)
- Greater Adjustant (Leptoptilos dubius)
- Marabou Stork (Leptoptilos
crumeniferus)
Các nhà nghiên cứu đã đo được chiều cao của
chúng trung bình từ 60 cm (2feet) tới 150 cm (5 feet). Loài stork này thường sống
bên Phi Châu, Á Châu, và Âu Châu.
Black-necked
stork
nguồn: wikipedia.org
|
Một trong các giống Stork này có Cò cổ
đen (Black-necked stork) với tên khoa học Ephippiorhynchus asiaticus là
giống cò được biết đến nhiều ở các vùng Nam Á và Úc Đại Lợi, bao gồm từ miên
đông Ấn Độ tới Tân Giunea và phân nửa vùng đất phía bắc Úc Đại Lợi. Ở Úc người
ta còn gọi tên giống cò này là Jabiru nhưng không thông dụng bằng tên
Black-necked Stork từ bên Mỹ Châu.
Cò cổ đen là giống chim lớn. Chúng cao từ
1m30 tới 1m50 và hai cánh sải dài đo được 2m30. Nó có bộ lông rất đẹp. Đầu, cổ,
cánh và đuôi màu đen. Phần còn lại với bộ lông màu trắng. Riêng cái mỏ lớn và
dài của nó màu đen và đôi chân màu đỏ. Khi bay, như các giống cò khác, chúng
vươn dài cổ thẳng ra phía trước, chứ không rụt cổ lại như loài diệc. Loại cò
này thích vùng đất ẩm thấp vùng nhiệt đới và chúng thích ăn cá, each, nhái. Nó
lót ổ trên cây và đẻ từ 3 cho tới 5 trứng là nhiều. Ở Úc, nơi nào giống cò này
sinh sản nhiều là mối lo cho môi trường bị ô nhiễm và nhất là nguồn nước ngọt để
uống mỗi ngày.
Ngoài ra còn có một loài cò cổ đen khác
có tên Saddle - billed stork (Ephippiorhynchus senegalensis), chúng cũng cùng
dòng họ với cò có tên Ciconiidae, thường sống các vùng nhiệt đới Phi Châu
như Sudan, Ethiopia, Keynia, Nam Phi, Senegal, Côte d’Ivoire và Chad thuộc
miền tây Châu Phi. Giống cò này có những điểm gần giống với loại cò cổ đen ở Á
Châu. Nó cao khoảng 120 cm (4 feet) tới 150cm (5feet). Cánh sải dài 270 cm (9feet).
Đầu, cổ, cánh, đuôi và phía lưng lông màu đen. Ức và phần vai lông màu trắng. Đặc
biệt mình nó dài. Chân và cổ ốm thon nhỏ. Ở đầu gối và bàn chân màu đỏ. Chúng
lót ổ trên cây cao và chỉ đẻ từ 1 tới hai trứng là nhiều. Trứng màu trắng và mỗi
trứng cân nặng 146 grams. Chúng ấp trong vòng 30 tới 35 ngày mới nở.
Cò trắng ( White
stork)
nguồn: wikipedia.org
|
Loài cò trắng có tên White stork
(Ciconia ciconia) mỏ nó nhọn, thẳng và màu vàng. Lông từ trên đầu xuống đến cổ
và bả vai màu trắng. Từ bả vai xuống hai cánh lông màu đen. Lông đuôi cụt. Chưn
cao và màu đỏ. Chúng sống bên Âu Châu và Á Châu. Loài này cao 100 cm. Ở rải
rác các hồ vùng Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ, người ta thấy giống cò này rất
nhiều. Phần lớn các cánh đồng lúa bao la của miền Nam Việt Nam, dường như đi
đâu người ta cũng gặp những cánh cò trắng này. Các rừng tràm, vườn tre cò trắng
chiếm đa số trong các giống chim qui tụ về đây làm thành những sân chim làm
vang danh một thời các sân chim miền Nam.
Nhắc tới cò người ta luôn nghĩ cò chỉ có
màu trắng, nhưng các nhà nghiên cứu về cò còn cho biết có một giống cò đen với
cái tên Black Stork (Ciconia nigra) với đôi cánh rộng trong nhóm Ciconiidae. Giống
cò này cao gần 1m với đôi cánh sải dài 1m80. Cò đen có bộ lông toàn màu đen và
chỉ có cái ức và bên dưới hai cánh là lông màu trắng. Cái mỏ và chân của nó màu
đỏ. Loại cò này đi chẩm rải trên các lung vũng tìm mồi với cái cổ thòng dài về
phía trước. Chúng thích làm ổ trên các cây cao.
Cò đen là giống chim thiên di nên có thể
bay rất xa và mỗi ngày bay trung bình từ 100 km đến 250 km; Có ngày bay xa nhất,
chúng bay tới 500 km một ngày. Chúng thường sống bên Phi Châu, Tây Ban Nha,
Sicily-Cap Bon, Tunisia, Shahara, Nigeria, Mali. Về phía đông, con đường chúng
hay lui tới là Bosphonrus – Sinai - Nil. Giống chim này từ vùng Viễn Đông bay đến
miền Nam Trung Hoa. Chúng thiên di vào giữa tháng 8 cho đến hết tháng 9 và
chúng trở về vào trung tuần tháng ba hằng năm.
Có một giống cò tên là Wood stork với
tên khoa học là Wood ibis Mycteria americana. Chúng cao tới 119 cm (47 inch), mỏ
dài, đuôi ngắn. Trên đỉnh đầu lông màu trắng. Một phần cổ từ đầu xuống lông màu
xám. Lông mình và cánh màu trắng và che khuất lớp lông đen ở phần chót cánh.
Thường thường loài cò này sống rất dai và chúng đẻ từ 2 tới 5 trứng là nhiều.
Ngoài ra còn có cò quắm mặt trắng tên
White-faced Ibis với tên tên khoa học Plegadis chihi. Có cái mỏ dài và quắm
xuống như lưỡi hái cắt lúa. Lông chúng màu xanh lá cây pha chút xám. Cánh màu đồng
đỏ; cẳng và chân màu đỏ lợt. Ở hai bên má có da màu đỏ và một viền trắng bao
quanh hình chữ U chạy từ mũi vòng qua mắt tới khóe miệng của chúng. Loại cò này
cao khoảng 58 cm (23inch). Chúng đẻ khoảng từ 3 đến 5 trứng và trứng màu xanh
lá cây.
Riêng cò có tên Great white egret,
tên khoa học Egretta alba. Chúng có mỏ nhọn, dài và màu vàng. Lông màu trắng,
trên lưng và dưới ức có nhiều sợi lông cước màu trắng. Chân chúng màu xám. Loại
cò này rất lớn con. Người ta đo được chiều cao các giống cò này 99 cm (39inch).
Wood stork White-faced
Ibis
nguồn: wikipedia.org
Ở Việt Nam, cùng với giống cò trắng mà
dân ruộng gọi là cò ma, giống cò Great white egret này cũng chiếm đa số trên
các cánh đồng và vườn tre, rừng tràm ở Nam phần. Người ta cũng bắt gặp loại cò
này trên các ao hồ và sông rạch ở Hoa Kỳ; đặc biệt các ao hồ vùng Boston thuộc
tiểu bang Massachusette và vùng Houston thuộc tiểu bang Texas, chúng nhiều vô số
kể. Chúng lót ổ trên cây hoặc ngay trên các cánh đồng lúa dày bịt và chỉ đẻ khoảng
từ 3 đến 5 trứng là nhiều. Thức ăn chính của cò là cá và cua, ốc.
Cò sao còn gọi Limpki tên khoa học
Aramus guarauna với mỏ dài và cong như cò quắm nhưng lông chúng màu xám pha
chút màu nâu lợt với những chấm trắng rải đều trên thân làm thành những hàng
lông như sao trời rất đẹp. Tiếng kêu của chúng nghe như tiếng khóc và người ta
còn gọi cò này là chim khóc. Chúng làm ổ trên cây và đẻ từ 5 tới 8 trứng màu
ngăm ngăm bùn.
Ngoài ra, còn có cò xanh có lông màu
xanh; cò ráng có lông màu ráng vàng buổi chiều. Loại cò ráng và cò xanh cẳng
không cao cho lắm. Cò xanh cao 58 cm (23 inch), cò ráng cao 54 cm (21 inch) .
Giống như cò ma, chúng thích sống trên những cánh đồng Nam phần Việt Nam, nhất
là trên những cánh đồng lúa mùa và các vườn tre gai, hoặc những chòm điên điển.
Có một giống cò tên Glossy
ibis cao 65cm(26 inch). Chúng thường sống vùng gần bờ biển miền Đông Hoa Kỳ.
Nhưng có lẽ giống cò có cái mỏ dài và
chè bè ra như cái muỗng có tên Roseate spoobill (Ajaia ajaja), chúng cao 81 cm
(32 inch) là một giống cò lạ.. Lông cổ trắng. Lông cánh màu đỏ pha màu
nâu lợt. Chưn màu vàng. Ngay lỗ tai có một viền màu xanh đậm. Chúng đẻ rất ít.
Chỉ 3 trứng là nhiều. Trứng màu trắng pha màu nâu lợt. Trong chùm ảnh “cái cò
cái hạc” của nhiếp ảnh gia Hoàng huy Mạnh trên trang nhà gio-O, có hai loại cò
ma và cò muỗng này.
Great white
egret (Cò Ma)
|
Roseate spoobill
|
Asian Openbill
Stork
nguồn: wikipedia.org
|
Nhưng ở Á Châu, nhất là các vùng nam Á,
từ Ấn Độ tới Tích Lan không thể không nhắc giống cò có tên là Asian Openbill
Stork. Chúng có bộ lông màu trắng, chót cánh màu đen, chưn màu đỏ, mỏ màu vàng.
Chúng làm ổ trên cây và đẻ từ 2 tới 6 trứng.
Về truyền thuyết, từ thời cổ đại, cò trắng
cũng được nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới công nhận cò là biểu tượng
của may mắn với hình ảnh của đứa bé vừa chào đời; đặc biệt là các nước tây
phương, với Bulgarian, cò là biểu tượng của mùa Xuân trở lại; với Trung Hoa, cò
là hình ảnh của người đàn ông xứng đáng và hạnh phúc; với Việt Nam, trong ca
dao, cò là hình ảnh người đàn bà “gánh gạo nuôi chồng”…
Qua một vài chi tiết tóm lược bên trên
cho thấy giữa các loài chim rất quen thuộc như cò tới các giống chim lớn khó
tìm như hạc và sếu, mặc dù cùng là giống chim lớn, cao cẳng, cổ dài, cánh rộng,
bay xa và cao nhưng là các loài chim khác nhau hoàn toàn về nhiều phương diện,
từ màu sắc tới hình dáng, từ cách làm ổ tới đẻ trứng, từ vùng sinh sống tới đặc
điểm khác nhau trong cách tìm mồi… Dù là hạc, là sếu hay là cò, cả ba giống này
đều có những bộ lông rất đẹp, có những tài nghệ khi vỗ cánh bay cao hoặc cái
dáng uyển chuyển khoan thai khi quạt cánh để chuẩn bị cho một bãi đáp êm đềm
trên ngọn cây hay bãi cỏ, mỗi loài đều có những vũ điệu tuyệt đẹp khi gặp lại
tình nhân, khó mà phân biệt được loài nào hay hơn, đẹp hơn loài nào.
Nhưng theo nghĩa trong từ điển và qua thực
tế ngoài thiên nhiên, chúng tôi nghĩ các nhà viết sách khi có dịp đề cập đến
các loài chim này, thiết nghĩ qúy vị nên gọi tên của chúng càng chính xac
chừng nào càng tốt ch ừng ấy. Dù các giống chim này không biết “chính danh” là
gì, nhưng khi gọi tên không
trúng tên của chúng, phản ứng trước tiên
là chúng sẽ ngơ ngác vì không nhận ra ai gọi tên mình và có lẽ chúng cũng mất
vui vì chúng không muốn biến mình thành một loài chim nào đó không phải là
chúng !!!
Lương thư Trung
Ngày 29-10-2007
Ghi chú:
1/ Khi Hồng Hạc Bay Về của Huyền Diệu,
nhà xuất bản tổng hợp tp HCM, tái bản lần thứ nhứt, năm 2005, trang 62.
2/ Từ Điển Anh Việt của Viện Ngôn Ngữ do
nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội ấn hành, Hà Nội, năm 1991.
3/ Ngoài ra, các tài liệu tham khảo
trong bài viết này bao gồm :
• Cuốn “The New
Encyclopedia of American Birds của David Alderton, nhà xuất bản Hermes House, London,
2004.
• Bộ Wikipedia,
the free encyclopedia trên liên mạng.
• Bộ The New
Encyclopaedia Britannica (30 quyển), phần Micropaedia (Ready Reference and
Index), cuốn III, IV, IX, bản in tại Hoa Kỳ, tái bản lần thứ
15, năm 1976.
• Cuốn Birds of the
World của Bryan Richard do nhà xuất bản Barnes & Noble, New York, Hoa Kỳ,
năm 2006.