Lương Thư Trung
Mấy đặc điểm trong những trang bút ký của
Lưu Nhơn Nghĩa
(Nguồn:
www.talawas.org)
|
Nhà văn
Lưu Nhơn Nghĩa
(1941-2007)
|
Nhà
văn Lưu Nhơn Nghĩa, còn có bút hiệu là Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa, sanh năm 1941
tại xóm Tà Păng Flức, sóc Ô Thôm, xã Ô Lâm, thuộc quận Tri Tôn (Xà Tón), tỉnh
Châu Đốc. Nội ngoại đều gốc Triều Châu. Mồ mả tổ đường bên phủ Triều Châu, gần
Xua Tháo (Sán Đầu) Phong Khê, Lưu cấp thủy, nơi đó có tháp Cấp thủy. Thuở nhỏ học
Sơ học tại trường Đình ở Xà Tón tới lớp ba, năm 1952, vì thời cuộc loạn lạc, có
khi ra Mỹ Đức học tư ở Miễu Điền, rồi về học lại trường Đình. Sau khi học hết lớp
ba ở trường Đình, anh được gia đình cho ra Châu Đốc tiếp tục học lớp nhì, lớp
nhứt. Khi lên trung học, anh thi vào lớp đệ thất trường trung học công lập Thủ
Khoa Nghĩa, Châu Đốc, và cuối năm 1958, Thủ Khoa Nghĩa không nhận anh vào lớp đệ
tam vì thi rớt bằng trung học đệ nhất cấp.
Từ đó, anh phải lao đao lên Sài Gòn tìm trường tư học tiếp và anh theo học lớp
đệ tam ban B tại trường Hoàng Việt ở đường Phan Đình Phùng. Sở dĩ anh chọn học
ban B vì anh hy vọng khá toán để thi lại bằng trung học đệ nhất cấp. Nhưng cả
năm lần vào trường thi các niên khoá 1959, 1960 và 1961, anh đều bị rớt bằng
trung học. Khoá hai, năm 1961, tại hội đồng thi Long Xuyên anh cũng dự thi lấy
bằng này cho vừa lòng gia đình; năm này, anh theo học lớp đệ nhị ban C trường
trung học tư thục Hàn Thuyên. May sao, sau khi nạp đơn xong ở Long Xuyên, để
thi lại bằng trung học đệ nhất cấp, anh trở lên Sài Gòn và có kết quả đậu tú
tài 1.
Năm 1961, cả Sài Gòn chỉ có bốn trường có lớp đệ nhứt ban C, đó là các trường
Gia Long, Pétrus Ký, Chu Văn An và Trưng Vương. Các trường tư không có lớp đệ
nhứt C vì không đủ học sinh. Dịp may, năm 1961, trường trung học Hồ Ngọc Cẩn ở
Gia Định có mở lớp đệ nhứt C, dành cho dân lục tỉnh lên, anh ghi danh và theo học
lớp đệ nhứt C trường Hồ Ngọc Cẩn.
Hết bậc trung học, anh theo học trường Đại học Sư phạm Sài Gòn ban Anh văn niên
khóa 1966-1969 (năm 1966, là năm Đại học Sư phạm Sài Gòn bắt đầu mở khóa Dự bị
Đại học Văn khoa hay Khoa học + 3 năm, tất cả là 4 năm), ra trường ngạch giáo
sư đệ nhị cấp và chọn nhiệm sở Củ Chi. Năm 1970, đang đi dạy bị động viên bất
ngờ và theo học khoá 4/70 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Sau lại được biệt phái trở về
ngành giáo dục và dạy ở Sóc Trăng. Theo Tạ Xuân Vinh, người thân trong gia
đình, “trước năm 1975 anh sang tu nghiệp tại Tân Tây Lan, lưu lạc sang Đức lập
gia đình năm 1980, có con rồi thu xếp về lại Úc năm 1988. Theo “Thất Sơn Châu Đốc”,
anh còn là giáo sư ở New Zealand và Brisbane (Úc Đại Lợi). Năm 2007, anh còn là
Hiệu Trưởng trường Việt Ngữ ở Brisbane trước khi vào bệnh viện Brisbane PA
Hospital để trị căn bịnh ung thư máu ở thời kỳ chót.
Nhà văn Lưu Nhơn Nghĩa mất vào lúc 4 giờ sang ngày 27 tháng 9 năm 2007 (nhằm
ngày 17 tháng 8 âm lịch, năm Đinh Hợi), hưởng thọ 67 tuổi và đã để lại cho đời
các tác phẩm Như cánh chuồn chuồn, Con đường cũ và 64 bài bút ký [1] .
Tất cả 64 bài bút ký này, anh viết trong khoảng thời gian từ ngày 06 tháng 4
năm 2005 đến những ngày gần cuối đời, 30 tháng 8 năm 2007. Riêng năm 2007, từ
ngày 18 tháng 01 năm 2007 đến cuối tháng 8 năm 2007, tức những ngày nằm bịnh viện,
dù biết trước là mình không thể sống được lâu thêm, nhưng anh vẫn bình tâm và
đã cố gắng nhớ lại và viết được 16 bài. Điều đó cho chúng ta thấy tấm lòng của
anh muốn để lại cho đời những trang bút ký mà anh hằng ấp ủ …
Cuốn Như cánh chuồn chuồn dày 415 trang, bao gồm các bài giới thiệu của
nhà xuất bản, các bài nhận xét của các tác giả Phạm Thăng, Áo Lục, Phù Vân về
cuốn sách; riêng anh Lưu Nhơn Nghĩa có riêng cho mình 369 trang sách kể lại những
mảnh đời qua những thời kỳ… Cuốn Con đường cũ là một bút ký ghi lại chuyến
về thăm lại Xà Tón của tác giả vào cuối năm 2000 và được cập nhật ngày 10 tháng
10 năm 2006, gồm 19 phần, tác giả đã mang lại cho người đọc một cái nhìn mới về
xứ sở của mình sau 25 năm xa xứ. Riêng 64 bài bút ký viết từ tháng 4 năm 2005
cho tới những ngày cuối tháng 8, anh đã phác thảo một bức tranh xã hội, không
chỉ riêng cái xứ Xà Tón của anh mà còn bao quát cái nếp sinh hoạt của miền Nam
Việt Nam.
Chẳng những tác giả là người trong cuộc với một vốn sống và trải nghiệm vô cùng
phong phú, Lưu Nhơn Nghĩa còn là một chứng nhân của thời đại, nên những trang
sách của Lưu Nhơn Nghĩa không chỉ là những chuyện kể rất nhiều chi tiết xác thực
mà nó còn là bức tranh muôn màu muôn vẻ của thời đại mà anh sống. Với một kiến
thức uyên bác, cùng óc quan sát tinh tế và bén nhạy, không việc gì dù nhỏ mà lọt
qua khỏi cái nhìn sắc bén của tác giả. Từ cái phù hiệu của trường tới cái mảnh
bằng thi hoài không đậu, từ tô bún nước lèo tới xề bánh hỏi, từ cây tầm đo đất
tới cái lòng tham của chủ điền, từ cái nét đặc thù của mỗi nền văn hóa của các
sắc dân Việt, Miên, Tàu cho đến cách ăn chay của dân chúng tu theo đạo Tứ Ân, từ
cách dạy học trò phải đánh bằng roi mây với lối dạy học bằng những lời dịu ngọt.
Và còn nhiều lắm những sự kiện mang dáng vẻ đời sống như vậy, qua những trang
bút ký, tác giả đã mang đến cho người đọc không chỉ là những “chuyện hàng xóm”
mà nó còn phản ảnh cả một thời đại dài gần hai phần ba thế kỷ, qua các giai đoạn
thanh bình, rồi giặc giã, loạn lạc, tản cư cùng những ưu và khuyết điểm của mỗi
thời kỳ lịch sử mà tác giả đã sống qua và từng trải.
Thử lấy một trang bút ký “Lải nhải đời tôi 1959-1969”, tác giả viết ngày 15
tháng 01 năm 2007, là một toàn cảnh của Sài Gòn với 10 năm tiêu biểu ấy. Mười
năm kể từ ngày anh phải xa trường Thủ Khoa Nghĩa vì Thủ Khoa Nghĩa khước từ
anh, là những năm tháng anh long đong trên mảnh đất Sài Gòn. Tác giả viết: “Năm
1958, dân Sài Gòn đã quen tên đường bằng tiếng Việt” mà trước đó vài năm người
ta vẫn quen gọi tên đường bằng tiếng Tây. Rồi nào là các loại xe ở Sài Gòn vào
mấy năm đầu thập niên 60 này như xe gắn máy mobylette, Sach, vélo Solex,
Globel, Puch và cả loại xe taxi hiệu Renault nhỏ với lời tự sự mà học trò lúc bấy
giờ học thuộc lòng “ai bốn máy bon bon đường nhựa, ai năm tôn chất chứa bao người”.
Các thay đổi trong sinh hoạt hằng ngày càng về sau càng gấp gáp với nhịp độ văn
minh vật chất du nhập vào miền Nam lúc bấy giờ. Rồi tác giả cho chúng ta thấy
thời thanh bình của Sài Gòn kéo dài từ 1954, ngưng chiến, cho đến tháng 01 năm
1961 nghe tin có đảo chánh. Những sự kiện như “bắt đầu kiểm tra trưng binh,
ngoài thẻ căn cước, thanh niên phải có thêm giấy “Tình trạng hợp lệ quân dịch
và thẻ cử tri đi bầu”. Trước cuộc đảo chánh 11/63, Sài Gòn ngột ngạt với các
phong trào đấu tranh Phật Giáo, biểu tình, tự thiêu là những hình thức khá phổ
quát thời kỳ này. Sau cuộc đảo chánh 11/63, không khí nhẹ thở hơn. Sinh viên hoạt
động rầm rộ với các cuộc bầu bán sôi nổi đôi lúc dẫn đến việc ám sát chết người
như trường hợp Lê Khắc Sinh Nhựt. Năm 1965, đợt xe Honda 50cc đầu tiên nhập cảng
vào Việt Nam cũng được tác giả nhắc đến như một dấu tích xe Nhựt tràn vào Sài
Gòn lúc bấy giờ. Văn học nghệ thuật trong giai đoạn này cũng được tác giả nhận
xét là nó còn trong vòng ảnh hưởng các nhà văn ngoài Bắc di cư năm 1954. Rồi xe
“Honda ôm” xuất hiện năm nào, tác giả không bỏ sót… Theo làn sóng binh lính Mỹ
đổ vào miền Nam, các bar giải trí cho lính Mỹ mọc lên đầy khắp. Ngoài ra, phong
trào nuôi chim cút vào khoảng năm 1968, 1969 với cái đau của dân mình bị gạt
cũng là cái nét tác giả khó quên trên trang bút ký của mình… Đặc biệt, “cùng
lúc với Việt Nam hóa chiến tranh, sau trận Tết Mậu Thân, nhạc Trịnh Công Sơn
đáp ứng nhu cầu chán chiến tranh, quán cà phê mọc lên” cũng là một nét ghi khác
của SàiGòn nói riêng và miền Nam nói chung, đã làm cho những trang bút ký của
tác giả thật đầy đặn.
Qua những trang bút ký “Lải nhải đời tôi”, theo tôi, không còn đơn thuần là
“chuyện hàng xóm” nữa rồi, mà chính đây là dấu tích của một thời kỳ lịch sử được
tác giả cô đọng lại thật đầy đủ chỉ trong vòng ba trang giấy, quả là một nghệ
thuật viết bút ký tuyệt diệu mà không phải ai ngồi xuống cầm cây viết là viết
ngay được!
Thêm vào đó, bút ký của Lưu Nhơn Nghĩa còn mang lại cho người đọc một kho từ vựng
vô cùng phong phú. Từ những phương ngữ thường dùng hằng ngày giữa ba sắc dân Việt,
Miên, Hoa ở cái chợ nhỏ từ hồi mới lập năm 1906 rồi qua các biến đổi của thời
cuộc, xã hội ấy cũng phải thay đổi theo thời cuộc, nhưng nhiều chữ cũ vẫn còn đọng
lại trên những trang bút ký của tác giả. Chính cái kho ngữ vựng ấy nó làm nên
cái nét đặc thù trong văn của Lưu Nhơn Nghĩa và nó đã làm cho người đọc mỗi khi
đọc anh người đọc không thể nào lầm lẫn với văn của các tác giả khác được…
Xin đơn cử vài từ ngữ tiêu biểu như: “mè ơi” là tiếng tán thán của dân Miên, có
nghĩa là “Má ơi” (theo tác giả, dân Miên không có kêu “Trời ơi”); “Col Sóc” tiếng
gọi chú tiểu theo hầu sư sãi Miên; “chết đốt”: người Miên chết thiêu xác chứ ít
khi chôn, nên bị gọi đùa là “dân chết đốt”; “thằng cốt đột”: thằng khỉ; “thơ
bun”: làm phước. Người giàu tổ chức “thơ bun” vài ngày, phát tiền gạo cho người
nghèo, hồi hướng công đức cho cha mẹ than nhân quá vãng; “He cà thưng”: lễ rước
Phật, từ chùa này sang chùa khác, đám rước có nhạc ngũ âm, có khi kiệu được người
khiêng, có khi đặt trên mình voi. Phật tử mỗi người cầm một bó hoa đi sau; “Đồn
ta”: Lễ vào rằm tháng bảy âm lịch; “Đánh kun”: đánh võ, hễ ai bị ra máu thì bị
thua; “Nen xậy”: con gái; “Sáng duyên ở mặt”: buổi sáng, người ta rửa mặt sạch
sẽ; “Trưa duyên ở mình”: trưa nắng nóng, người ta tắm mát, kỳ cọ thân mình;
“Chiều duyên ở chưn”: buổi chiều người ta rửa chưn đi ngủ, vì suốt ngày đi chưn
đất . “Cái hui ná” là một từ khác có nghĩa là cái giỏ hoa. Hui ná làm bằng tre
bên Tàu; hình tròn, có đường kính 30 cm, cao chừng 30 cm, có quai xách, nắp
tròn đậy kín khít khao, thành hui ná vẽ hoa, dùng để đựng quà cáp. Có loại lớn
đường kính 60 cm, cao cũng cỡ đó, gánh nhiều bánh trái đám cưới… “Lốt”: tiếng
Miên gọi các vị sư sãi. “Lốt Ta”: Sư cụ, người tu lâu, cao tăng, Sãi Cả. “Cái
cà om” là cái nồi bằng đất nung miệng nhỏ, đáy cà om có đường kính chừng 30 cm,
thường dùng để đựng đường chảy, nhưng đôi lúc dân Miên còn dùng cà om để hấp
bánh ống vì loại nồi này có cái cổ cao khoảng 60 cm, nên dựng những ống bánh
không bị ngã đổ .
Ngoài ra, trong những năm 1950, ở trường học có nhiều hình thức kỷ luật hay
khen thưởng học sinh, tác giả cũng không quên nhắc lại các từ vựng mà các trường
trung học thời ấy hay dùng do tiếng Pháp còn sót lại như “consigne”: phạt cấm
túc vào buổi sáng chủ nhựt, “zéro conduite”: không điểm hạnh kiểm, “tableau
d’honneur”: bảng danh dự... Những chữ “consigne”, “zéro conduite” là những từ
ngữ chỉ hai hình phạt nặng nhất đối với học trò mà ai đã từng đi học tại các
trường trung học công lập vào những năm của thập niên 1950-1960 không thể nào
không nhớ tới những hình thức kỷ luật này…
Trong bút ký của Lưu Nhơn Nghĩa, ngoài cái nét thời đại, nó còn là nguồn tài liệu
cung cấp cho các nhà viết địa dư chí những niên đại khá chính xác về các công
cuộc khai hoang, đắp đường, đào kinh, xây chợ và trường học. Chẳng hạn như con
đường Châu Đốc đi vô Tri Tôn do ai đắp và đắp năm nào? Chợ Xà Tón cất năm nào
và cháy năm nào? Con kinh Mặc Cần Dưng - Tri Tôn đào năm nào v.v…
Nhưng có lẽ địa danh Xà Tón, cái tên nghe quen quen nhưng chắc ít ai để ý tại
sao cái chợ nhỏ vùng này có cái tên như vậy. Đọc bút ký của Lưu Nhơn Nghĩa, tác
giả giải thích rành mạch: “Hồi xưa, theo thầy Xét, giáo viên trường Việt Miên
Tri Tôn, nói chữ Swaton, nghĩa là “khỉ đu”, có người nói “khỉ kéo”, ngày xưa,
chừng 100 năm trước, khỉ nhiều, dám ra kéo người. Chữ Swaton phải có trước, vì
xứ này thuộc Miên lâu đời. Dân Miên ở dọc theo chân núi. Từ chữ Swaton, dân Triều
Châu đọc thành âm Tzaitón, âm Hán Việt của Tzaitón là Tri Tôn”.
Bút ký Lưu Nhơn Nghĩa, như đã nói, không chỉ là chuyện hàng xóm ở cái chợ nhỏ
Xà Tón, mà nó còn bao quát cả những mảnh đời lưu lạc nơi xứ người. Từ Mã Lai,
Singapore qua Tân Tây Lan, Đức, Úc Đại Lợi và cả Mỹ, Gia Nã Đại… Những mẩu chuyện
“Ăn mày”, ở Đức, chuyện “Bánh mì” ở Monaco và chuyện “Tương lai” ở Amsterdam
(Hoà Lan), mỗi mẩu chuyện tác giả ghi lại trong vòng năm ba dòng nhưng với giọng
văn, vừa thật, vừa dí dỏm, diễn tả được cái đời sống thật của người tị nạn buổi
ban đầu nơi đất khách quê người với biết bao khó khăn, chua xót . Cùng với ba mẩu
chuyện “cực ngắn” vừa nêu, hầu như trong các trang sách của Lưu Nhơn Nghĩa, lúc
nào người đọc cũng bắt gặp cái giọng văn dí dỏm pha chút chua cay ấy, ngay cả
khi anh ngồi “kết toán sổ sách cuối đời” khi biết mình không còn sống được mấy
ngày và đó lại là cái nét độc đáo khác trong văn của tác giả.
Đọc lại những trang bút ký của Lưu Nhơn Nghĩa, tôi biết anh muốn lồng vào những
dòng chữ miên man bất tận ấy là bóng dáng của xã hội mà anh đã sanh ra và lớn
lên ở đó với cái nhìn trung thực của một chứng nhân. Trong bài báo “Thi văn với
thời đại” trên tờ Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, số 778, ngày 06 tháng 10
năm 1928, Phan Khôi có viết: Một bài thi, một bài văn, hay một tập thi, một
tập văn mà làm cho người ta quý trọng và lưu truyền được là nhờ có đặc sắc về
hai đường: một là về đường mỹ thuật, hai là về đường lịch sử. Đặc sắc về mỹ thuật,
nghĩa là thơ văn ấy hoặc tả cảnh hay, hoặc tả tình hay, đủ làm cho kẻ đọc đến
mà sanh cảm, cũng như trong khi xem bức vẽ hoặc xem một tấn tuồng mà giục nỗi
vui buồn. Đặc sắc về lịch sử nghĩa là trong thi văn có lưu lại những cái dấu vết
của xã hội đồng thời với tác giả; đời sau đọc đến có thể nhờ đó mà nhận ra cuộc
đời hồi ấy hoặc ít hoặc nhiều, có thể đem thi văn ấy mà đối chứng với những điều
nghi ngờ trong lịch sử. Từ xưa đến nay, những tay văn hào bất tử, thường là gồm
cả hai mặt đó… Được một người văn nhơn có quan hệ với thời đại là quý lắm; cùng
không nữa thì được một bài thơ hoặc một bài văn có quan hệ với thời đại cũng là
quý vì những thơ văn ấy có bổ ích cho nhà sử học về sau, giá trị của nó không
biết là bao. [2]
Những trang sách và bút ký của nhà văn Lưu Nhơn Nghĩa đã để lại cho người đọc
hôm nay và đời sau, theo thiển ý của tôi, nó vô cùng quý báu và rất xứng hợp với
lời nhận định của Phan tiên sinh, cách nay tròn 79 năm! Do vậy, những anh em
thân hữu còn thương tưởng anh Lưu Nhơn Nghĩa, cũng như bạn đọc còn mê văn
chương miệt vườn, đặc biệt những mẩu chuyện về vùng Tri Tôn-Xà Tón, tôi nghĩ,
không gì bằng chúng ta bình tâm ngồi đọc lại văn anh để không phụ lòng tác giả
về những gì anh muốn gởi lại cho đời …
Houston ngày 19 tháng 10 năm 2007
© 2007 talawas
[1]Như cánh chuồn chuồn của Lưu Nhơn Nghĩa, chùa Viên Giác
xuất bản, Cộng hòa Liên bang Đức, năm 2001; Con đường cũ của Lưu Nhơn
Nghĩa, Thất Sơn Châu Đốc (Hoa Kỳ) thực hiện bản điện tử, ngày 10 tháng 10 năm
2006; Bút ký của Lưu Nhơn Nghĩa, Thất Sơn Châu Đốc (Hoa Kỳ), từ 06 tháng
4 na9m 2005 đến ngày 30 tháng 8 năm 2007.
[2]Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1928 do Lại
Nguyên Ân sưu tầm & biên soạn, nhà xuất bản Đà Nẵng, Việt Nam, năm 2003,
trang 132.