Giãi mã “Nghi
án T.T.Kh”
Ti gôn, loài hoa nổi tiếng nhờ tác giả T.T.Kh. và T.T.Kh là một câu chuyện chưa
từng có trong lịch sử văn chương. Đó là câu chuyện về một thi sĩ bí ẩn bỗng nhiên
tung lên thi đàn mấy bài thơ tình tuyệt tác làm ngẩn ngơ độc giả rồi lặng lẽ biến
mất trong cái bàng hoàng sửng sốt của người yêu thơ.
Bảy mươi năm đã trôi qua kể từ ngày xảy ra câu chuyện kỳ lạ ấy. Rất nhiều người
đã tìm cách vén lên bức màn bí ẩn của câu chuyện nhưng hầu như chưa ai làm thỏa
mãn độc giả. Còn người yêu thơ vẫn luôn khát khao được biết sự thật: T.T.Kh là
ai và đã vì ai mà sáng tác nên những áng thơ tình đặc sắc đó?
Có một số nhân vật được các nhà sưu tầm đưa ra để giả định rằng đó là T.T.Kh.
Nam giới có, phụ nữ có. Trong số những "nghi can" có hai nhà thơ nổi
tiếng là Thâm Tâm và Nguyễn Bính. Còn bản thân Thâm Tâm, Nguyễn Bính chưa bao
giờ có phát biểu chính thức nhận mình là T.T.Kh.
Việc tìm kiếm con người thật của T.T.Kh thành ra vẫn rơi vào vòng lẩn quẩn
trong bao nhiêu năm qua, khiến câu chuyện thêm nhuốm màu huyền thoại. Có lẽ Tác
gỉả muốn ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về chín suối ? Vì không ai nhận mình là
người viết bài thơ đó .
Bằng cách phân tích các hình ảnh, biểu tượng, tình tiết văn học, thói quen sử dụng
ngôn ngữ trong thơ, trong truyện ngắn..., tác giả Trần Đình Thu đưa ra một cách
làm mới: so sánh đối chiếu với những người được cho là T.T.Kh lâu nay để nhận
xét xem ai là người phù hợp nhất.
Vì lòng mến yêu con người đã để lại cho đời những vần thơ say đắm Sưu tầm đọc một
loạt bài viết trích từ bản thảo cuốn sách Giải mã nghi án văn học T.T.Kh chưa
xuất bản , biên soạn lại “ cất vào kho riêng gắm nhấm dần”
HOA TI GÔN
“… Hoa leo ti gôn sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại
một mùa nở. Nó chẳng giống lòng bất trắc của con người…”
( Gánh hàng hoa- Khái Hưng )
Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, họa
sư Lê cũng không quên mua một bó hoa ti gôn. Đó là thói quen của họa sư mà
không một người bạn hay người học trò thân nào là không biết rõ.
Đến mùa hoa ti gôn nở nhiều nhất, trong nhà họa sư Lê người ta chẳng còn thấy một
thứ hoa nào khác. Mà có người nào tẩn mẩn ngắt một nụ hoa nho nhỏ ấy xem kỹ, họ
sẽ phải cho lời nhận xét của họa sư Lê là đúng: Hoa ti gôn hình quả tim vỡ làm
mấy mảnh, màu hồng dịu như nhuốm máu đào. Rồi người ta phải tự hỏi thầm: “Tại
sao họa sư Lê lại thích chơi cái thứ hoa trông như giấy ấy, để trong phòng quá
một ngày đã rụng rồi? Chắc lại có điều tâm sự chi đây”.*
Một buổi trưa – hồi đó Lê Chất hai mươi bốn tuổi, còn là một họa sĩ nghèo mới ở
trường ra – một buổi trưa đạp xe về các vùng lân cận Hà Nội, Lê Chất rẽ vào
làng Mọc với giá vẽ buộc trên xe. Người thiếu niên ấy đi tìm cảnh vẽ. Mà cảnh đẹp
đây là một thiếu nữ chàng mới gặp chiều qua.
Đến gần một ngôi nhà cũ kỹ, trông ra dáng biệt thự của một ông quan hưu dùng
làm chỗ nghỉ ngơi, Chất hãm xe, nghễnh cổ nhìn qua một hàng rào cây tốt um tùm.
Chiều qua, lúc Chất sắp đạp xe rất nhanh qua đó, tình cờ liếc mắt vào nhà, bỗng
thấy một thiếu nữ đứng trên một chiếc ghế cao, đang với tay lên những dây hoa đỏ
trên giàn nứa.
Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ, để lộ một màu da khỏe mạnh, như
thứ da thường ra nắng của những cô gái nhỏ. Hai má ửng hồng, vài sợi tóc trên vầng
trán, cảnh “con gái hái hoa” ấy như một bức tranh linh động, khiến người họa sĩ
phải dừng chân ngắm không chán mắt. Khuôn mặt đều đặn, vẻ đẹp thông minh, nhất
là đôi môi có một nét vẻ lạ, đó là thứ nhan sắc hiếm hoi, ai trông thấy một lần
đều in sâu trong trí nhớ.
Thiếu nữ vô tình, bận gỡ hoa trên giàn đã để Lê Chất có thì giờ nhìn ngắm kỹ. Đến
khi cô gái bước xuống đất, sắp vào nhà, đưa mắt nhìn ra đường thấy có người đứng
nhìn mình, mới cau mày tỏ vẻ không bằng lòng.
Nhưng từ hôm đó, hôm nào họa sư cũng đạp xe vào làng Mọc, giá vẽ buộc trên xe,
mà chẳng vẽ bao giờ, vì còn bận quanh quẩn gần biệt thự. Thiếu nữ động trông thấy
bóng anh chàng là lẩn vào nhà.
Lê Chất chỉ được trông thấy nàng vài lần nữa rồi thôi bởi ngôi nhà hình như sau
đó không có người ở nữa, ngày nào cũng chỉ nhìn thấy có một ông già cuốc cỏ
trong vườn.
Rất lâu, Lê Chất mơ màng đến người thiếu nữ. Anh cố nhớ lại khuôn mặt, thân
hình, hai cánh tay đẹp để trần, nhất là đôi môi của thiếu nữ. Anh đã vẽ nhiều
croquis cất trong album để ghi giữ lại rồi dần dần cũng quên đi…
Lê Chất đã nổi tiếng. Thầy học cũ của anh vì mến tài, đã đưa anh lên một địa vị
mà nhiều người ghen tỵ. Tranh của anh được nhiều báo nước ngoài nói đến và bán
với giá cao
Anh đã bỏ lối phong cảnh để vẽ người. Tranh vẽ người, nhất là tranh vẽ đàn bà
đã khiến các bạn Chất tặng cho cái tên: “Người lấy máu để vẽ các cô gái đẹp”. Họa
sĩ đã trở nên giàu có, ăn mặc sang, khó tính. Lê Chất bây giờ đã đứng tuổi, từ
lâu không còn là gã họa sĩ nghèo huýt sáo đạp xe quanh vùng lân cận Hà Thành đi
tìm cảnh đẹp, với giá vẽ buộc trên xe đạp.
Mùa lạnh năm ấy, Lê Chất đi vẽ ở một vùng Vân Nam phủ. Trong một bữa tiệc chiêu
đãi của tòa lãnh sự Pháp, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ ta, đẹp một vẻ khác
thường, nhưng có dáng buồn. Chất bỗng ngờ ngợ như hơn một lần đã gặp người này.
Ở đâu? Chất giật mình. Có thể nào? Nhưng quên làm sao được khuôn mặt ấy, đôi
môi ấy? Nhờ một người quen giới thiệu, Chất được rõ: Thiếu phụ là vợ một viên
chức trong tòa lãnh sự.
Trong khi nhảy với thiếu phụ một bản tăng-gô, Lê Chất đột nhiên hỏi:
- Bà vẫn thích hái hoa ti gôn chứ?
Thiếu phụ nhìn chàng rất ngạc nhiên:
- Ông nói gì… tôi không hiểu.
- Có lẽ bà đã quên Hà thành, làng Mọc, cái biệt thự xinh xinh có một giàn hoa…
Người đàn bà ấy kêu lên, mắt long lanh:
- Có phải ông là cái anh chàng họa sĩ vẫn nhìn trộm tôi ngày trước đó không?
Nàng nói tiếp:
- Thảo nào mới nhìn ông tôi cũng tự nghĩ không biết đã gặp ở đâu rồi. Tám chín
năm rồi đấy, thế mà chúng ta còn nhận được nhau…
Mai Hạnh – tên thiếu phụ – rất buồn ở Vân Nam phủ. Nàng không có bạn. Lấy một
người chồng gia thế cân đối với nhà mình, cuộc đời nàng bằng phẳng nơi đất
khách. Bây giờ gặp được người cùng xứ, người đó lại đã dự vào dĩ vãng tươi đẹp
của mình, một họa sĩ nổi danh, nàng không có cảm tình với Lê Chất làm sao được?
Hạnh thường đến chỗ họa sĩ trọ, thăm viếng mỗi ngày, và thuận cho chàng vẽ một
bức chân dung.
Một buổi sáng, hai người đi chơi, trên một ngôi chùa Tàu cheo leo đỉnh núi, Lê
Chất nói:
- Tôi biết thế nào trong đời tôi cũng còn gặp Hạnh, bởi vì không bao giờ tôi
quên cái buổi chiều ở làng Mọc. Nhưng số mệnh khiến chúng ta gặp nhau lần này
có phải là để chúng ta chỉ có thể thành đôi bạn thôi ư? Hạnh có đoán được lòng
tôi lúc này không?
Mai Hạnh, giọng run run tái nhợt, giơ tay bịt miệng Lê Chất. Nhưng khi Chất đã
ôm nàng thì Hạnh không cưỡng lại:
- Em cũng yêu anh ngay từ buổi đầu.
Thế là, hai người như sống trong một cơn mê.
Mai Hạnh cố chống chọi lại với tình yêu mỗi ngày một lớn, còn Lê Chất thì lo ngại,
tính toán như ngồi trên đống lửa. Chàng định cùng Hạnh trốn đi Nhật, không cần
danh dự, chức nghiệp, dư luận của người đời. Nhưng Mai Hạnh tuy yếu đuối hơn, rụt
rè, e ngại sau cùng cũng nhận lời.
Lê Chất trở về Hà Nội, sắp đặt xong mọi việc, lo lót giấy tờ tiền bạc, đồ dùng
đi xa, tất cả đã sẵn sàng, thì phút cuối cùng nhận được thư của Hạnh:
“Chất, anh hãy đi một mình và quên em đi, vì em không có thể theo anh. Đừng giận
em tội nghiệp, em không phải là loại đàn bà có thể vượt được hết những khó khăn
như anh đã tưởng. Đến phút cuối cùng, em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ
thân thầy mẹ em, chồng em khinh bỉ, tai tiếng ở đời, những lo ngại ở tương lai…
Em thấy rằng: nếu đi với nhau chưa chắc chúng ta đã sung sướng. Anh thấy chưa? Em là một đứa hèn! Em không yêu anh được như
anh tưởng đâu, vì em đã hy sinh anh cho tất cả những lo ngại trên kia. Vậy mà
em yêu anh có thể chết vì anh được. Trong đời anh còn nhiều chuyện, anh có thể
quên em được đấy! Nhưng còn em thì chẳng bao giờ, chẳng bao giờ! Vì em biết em
sẽ không bao giờ tự an ủi được, bởi em đã làm hỏng đời em, nếu em chẳng theo
anh…”
Trong thư, một dây hoa ti gôn nhỏ ép rơi ra: những nụ hoa chum chúm hình quả
tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu đào.
Lê Chất đặt một cái hôn trên những cánh hoa, và khóc. Nhưng đó là một kẻ đàn
ông có nghị lực. Chàng đi du lịch xứ Phù Tang có một mình.
*
Bốn năm sau, một hôm họa sư Lê Chất thấy trên bàn giấy mình một phong thư viền
đen báo tang. Ông mở ra xem thì đó là của người chồng Mai Hạnh báo tin nàng đã
chết.
Họa sư đáp xe lửa đi Vân Nam ngay để một buổi chiều đặt trên mồ Mai Hạnh những
dây hoa quen thuộc. Rồi trở về Hà Nội, ông mới sực nhớ ra rằng đã quên không hỏi
xem Mai Hạnh đã chết vì một bệnh gì, một cơn cảm sốt…, hay vì sầu muộn…
Ngày nay, họa sư Lê Chất đã già, nhưng cứ đến mùa hoa ti gôn nở, không buổi
sáng nào ông quên mua một ôm về thay thế hoa cũ trong phòng vẽ, vì thứ hoa ấy
chóng tàn.
Thanh Châu ( Đăng trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy )
NHỮNG BÀI THƠ KÝ TÊN T.T.Kh
Hai sắc hoa ti gôn
Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ đến với yêu đương.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng: “Hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi”.
Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy”.
Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời gian khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường.
Từ đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người.
Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai.
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi.
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi! Người ấy có buồn không
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?
Bài thơ thứ nhất
Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết thương.
Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.
Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên chờ.
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
“Cố quên đi nhé câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ”.
Tôi run sợ viết lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám gặp ai về.
Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa than ôi
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
Bài thơ cuối cùng
Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?
Một mùa thu cũ một lòng đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có nói đâu.
Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly
Càng khơi càng thấy lụy từng khi
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.
Là giết đời nhau đấy biết không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Từ đây anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng, hừ đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
Ngang trái đời hoa đã úa rồi
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi
Buồng nghiêm thờ thẩn hồn eo hẹp
Đi nhớ người không muốn nhớ lời.
Tôi oán hờn anh mỗi phút giây
Tôi run sợ viết bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôi chết
Đêm hỡi, làm sao tối thế này?
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín
Lại chính là anh, anh của em.
Tôi biết làm sao được hỡi trời
Giận anh không nỡ nhớ không thôi
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
Sợ quá đi anh, có một người …
Bài thơ đan áo
Chị ơi, nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương
Đã xa hẳn quãng đời hương
Đã đem lòng gửi gió sương mịt mùng
Hay chăng chị mỗi chiều đông
Đáng thương những kẻ có chồng như em
Vẫn còn giá lạnh trong tim
Đan đi đan lại áo len cho chồng
Con chim ai nhốt trong lồng
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ
Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
Hay đâu gió đã sang bờ ly tan
Tháng ngày miễn cưỡng em đan
Kéo dài một chiếc áo lam cho chồng
Như con chim nhốt trong lồng
Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao
Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời
Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
Quang cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.
Câu chuyện tình buồn 70 năm trước
Câu chuyện T.T.Kh bắt đầu vào tháng 7/1937, khi tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy
đăng một truyện ngắn mang tên Hoa ti gôn của nhà văn Thanh Châu như đã nói ở
trên :
Tóm tắt lại một lần để còn phân tích :
Có một họa sĩ nghèo mới ra trường. Trong một lần đi tìm cảnh vẽ, chàng đã gặp một
thiếu nữ đang hái hoa ti gôn trong vườn. Từ đó, chàng đâm ra mê người đẹp, luôn
đạp xe vào làng để ngắm trộm nàng hái hoa.
Năm tháng qua đi, chàng họa sĩ trở nên nổi tiếng. Tranh vẽ của chàng bán được
giá rất cao. Họa sĩ trở nên giàu có. Một mùa đông, chàng đi vẽ ở một vùng nọ.
Trong một bữa tiệc chiêu đãi, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ. Chàng ngờ ngợ
như đã từng gặp người này ở đâu. Cuối cùng nhớ ra, nàng chính là cô gái hái hoa
ngày ấy. Trong khi khiêu vũ với nàng, chàng nhắc lại chuyện cũ. Nàng vô cùng ngạc
nhiên.
Nàng kể chuyện cuộc đời mình cho chàng nghe. Nàng lấy một người chồng môn đăng
hộ đối nhưng cuộc hôn nhân quá tẻ nhạt. Từ đó, nàng hay lui tới chỗ họa sĩ trọ
để chơi và để chàng vẽ cho một bức chân dung. Chuyện gì đến đã đến. Một buổi
sáng, hai người đi chơi ở một ngôi chùa trên đỉnh núi, chàng đã tỏ nỗi lòng
mình. Nàng đáp lại tình yêu của chàng.
Chàng bàn với nàng trốn đi Nhật để chung sống với nhau. Nàng nhận lời. Chàng về
Hà Nội, sắp đặt xong mọi việc thì nhận được thư nàng vào giờ chót. Nàng từ chối
chuyến đi vì không đủ can đảm vượt qua. Trong thư, một dây hoa ti gôn nhỏ ép
rơi ra. Chàng nhìn những nụ hoa hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu, lặng lẽ
hôn lên những cánh hoa và khóc.
Bốn năm sau, một hôm chàng nhìn thấy trên bàn mình một phong thư viền đen. Mở
ra xem thì đó là của người chồng nàng báo tin nàng đã chết. Chàng đáp xe lửa đến
nơi để đặt lên mộ nàng dây hoa quen thuộc. Từ đó, chàng luôn mua hoa ti gôn về
đặt trong phòng mình.
Tác giả của nó - nhà văn Thanh Châu, khi đó là một chàng trai trẻ 25 tuổi, vừa
quyết định bước vào nghiệp văn chương. Chàng cũng vừa trải qua một chuyện tình
buồn.
Hai tháng sau ngày Thanh Châu đăng truyện ngắn nói trên, một sự kiện đặc biệt xảy
ra. Vào tháng 9/1937, tòa soạn tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy nhận được một bài
thơ của một tác giả ký tên là T.T.Kh. Đó là bài Hai sắc hoa ti gôn, được đăng
vào ngày 23/9/1937.
Bài thơ Hai sắc hoa ti gôn đã gây nên xúc động lớn trong lòng người yêu thơ bởi
những câu thơ quá da diết. Giới văn nghệ xôn xao. Gần hai tháng sau, tòa soạn lại
nhận được một bài thơ nữa. Bài thơ này có tựa đề là Bài thơ thứ nhất dù đó là
bài thơ thứ hai gửi đến. Bài này được đăng trên số báo ngày 20/11/1937. Và một
năm sau nữa, tòa soạn nhận thêm bài Bài thơ cuối cùng. Bài này được đăng trên số
báo ra ngày 30/10/1938.
Từ đó, tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy không còn nhận thêm bài thơ nào của con người
bí ẩn này nữa. Ngược lại, có một bài thơ cũng ký tên T.T.Kh gửi đến một tờ báo
khác. Đó là Bài thơ đan áo.
Những bài thơ mang tên T.T.Kh đã làm cho độc giả bàng hoàng sửng sốt. Nhưng tác
giả của nó đã lặng lẽ rời bỏ văn đàn, không bao giờ xuất hiện ở đâu nữa. Không
ai biết một chút gì về con người bí ẩn này. Nghi án văn học T.T.Kh từ đó bắt đầu...
Năm 1942, Hoài Thanh - Hoài Chân xuất bản Thi nhân Việt Nam lần đầu tiên,
T.T.Kh đã được đưa vào tập sách quan trọng này. Song song đó, nhiều người lại
liên tục công bố những thông tin về T.T.Kh. Nào Thâm Tâm, nào Nguyễn Bính, nào
em gái nhà thơ Tế Hanh, nào là Trần Thị Khánh... Rất nhiều "ứng
viên".
Nguyễn Vỹ, một người có mặt trong Thi nhân Việt Nam đã viết một bài dài trên Tạp
chí Phổ Thông vào những năm 1960. Ông Vỹ cho biết, một buổi tối trên đường về
nhà, ông gặp Thâm Tâm đang lang thang. Ông mời Thâm Tâm về nhà mình uống rượu.
Ngà ngà say, Thâm Tâm cao hứng kể chuyện tình của mình. Thâm Tâm cho biết, người
yêu của mình là một nữ sinh tên là Trần Thị Khánh. Nàng đã có lần gợi ý Thâm
Tâm đến nhà hỏi cưới nhưng chàng bảo sự nghiệp chưa có gì. Bẵng đi một thời
gian, một hôm chàng nhận được phong thư báo tin nàng sắp lấy chồng. Đã bị người
yêu bỏ đi lấy chồng, lại còn bị đám bạn chế nhạo, Thâm Tâm đâm ra bị quê. Vì thế
đã phải thức một đêm để làm một bài thơ tựa đề là Hai sắc hoa ti gôn, ký tên
T.T.Kh. Thâm Tâm làm như vậy với dụng ý để các bạn của mình tin là của Khánh
làm, cho khỏi mang tiếng bị tình phụ. Sau đó, Thâm Tâm gửi bài thơ tới tòa soạn.
Về phần cô gái đó, sau khi đọc được bài thơ Hai sắc hoa ti gôn, liền viết thư
phản đối Thâm Tâm kịch liệt. Thâm Tâm bèn lấy những câu chữ trong bức thư này để
viết tiếp các bài thơ sau này, vẫn ký là T.T.Kh...
Ngược với Nguyễn Vỹ thì một số tác giả, chẳng hạn như Hoàng Tiến, lại cho rằng
chính cô Trần Thị Khánh, cô người yêu của Thâm Tâm đã sáng tác ra những bài thơ
ký tên T.T.Kh. Một số tác giả khác còn tiến thêm một bước cụ thể hơn nữa khi
cho rằng Trần Thị Khánh chính là em gái họ của nhà thơ Tế Hanh...
Với Nguyễn Bính, không thấy có những câu chuyện cụ thể như trường hợp của Thâm
Tâm. Người ta chỉ dựa vào bài thơ Cô gái vườn Thanh đề tên tác giả Nguyễn Bính
để cho rằng Nguyễn Bính chính là T.T.Kh.
T.Kh là “nàng” hay “chàng”?
Thật ra, ta thấy thơ T.T.Kh nghiêng về dòng thơ ảnh hưởng thơ Pháp mà Thế Lữ đã
khơi nguồn và Xuân Diệu đẩy lên đến tận cùng hơn:
"Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh" (Thơ Xuân Diệu);
"Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành" (Thơ T.T.Kh).
Cũng là những câu thơ tả cảnh như thế, nhưng nó quá khác biệt khi đặt bên cạnh
thơ Thâm Tâm hay Nguyễn Bính:
"Thu sang trên những cành bàng/
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn" (Thơ Nguyễn Bính),
"Bừng sáng, xuân bay tang tảng sương
Canh gà heo hút nẻo giang thôn
Chài ai gấp gấp giăng giăng bạc
Tiếng mác qua giời, dịp sáo non" (Thơ Thâm Tâm).
Thơ T.T.Kh hiện đại từ ngôn ngữ cho đến hình ảnh cho ta thấy sự khác biệt về
cách sử dụng từ ngữ giữa T.T.Kh và Thâm Tâm, Nguyễn Bính.Ngôn ngữ trong thơ
T.T.Kh là tác giả hầu như chỉ sử dụng từ thuần Việt. Đây là một đặc điểm cho thấy
tác giả không hề hoặc rất ít được tiếp xúc với Hán học mà chủ yếu được đào tạo
theo quốc học.
Về mặt sử dụng hình ảnh, cũng có những điểm cho ta thấy sự khác biệt. Một ví dụ
đơn giản: hình ảnh bông hoa ti gôn. Ti gôn là một thứ hoa của phương Tây du nhập
vào Việt Nam trước đó không lâu. Vào thời ấy, nó là loài hoa của những gia đình
trưởng giả. Nó có thể quen thuộc với những thi sĩ hiện đại như Xuân Diệu, Huy Cận,
nhưng nó sẽ xa lạ với một nhà thơ chân quê như Nguyễn Bính hoặc một nhà thơ áo
bào gốc liễu như Thâm Tâm.
Nếu cần dùng hình ảnh một loài hoa nào đó để làm thơ thay cho người khác thì với
Thâm Tâm, có lẽ ông sẽ dùng hoa gạo, hoa lý, hoa xoan... còn với Nguyễn Bính
thì ông sẽ dùng hoa cải, hoa cà, hoa chanh, hoa mướp...
Đọc kỹ những câu thơ của T.T.Kh, có những câu dường như chỉ là tác giả nữ thì mới
viết như thế:
"Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi người ấy có buồn không" (Hai sắc hoa ti gôn).
Chúng ta phải thừa nhận điều này, đàn ông và phụ nữ có cách nói, cách nghĩ khác
nhau. Có những điều, đàn ông nghĩ thế này nhưng phụ nữ sẽ nghĩ thế khác. Chẳng
hạn người đàn ông thường lo người mình yêu bị khổ còn phụ nữ sẽ lo người mình
yêu bị buồn. Cho nên là phụ nữ thì T.T.Kh mới viết câu: "Trời ơi người ấy
có buồn không".
"Từ đấy, thu rồi, thu, lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy cho nên vẫn hững hờ".
Đây là những cảm nhận hết sức tinh tế của một người phụ nữ, hơn nữa là người phụ
nữ đã có chồng. Đàn ông không thể làm được những câu thơ này.
Đọc những vần thơ của T.T.Kh, ta thấy tràn ngập trong đó những nỗi niềm tâm sự,
những xót xa ngậm ngùi, những buồn thương uất hận:
"Tôi oán hờn anh mỗi phút giây
Tôi run sợ viết bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôi chết
Đêm hỡi, làm sao tối thế này" (Bài thơ cuối cùng),
"Là giết đời nhau đấy phải không
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng" (Bài thơ cuối cùng),
"Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời gian khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường" (Hai sắc hoa ti gôn)...
Với những câu thơ này T.T.Kh dứt khoát phải là một tác giả nữ.
Mối quan hệ giữa T.T.Kh và tác giả truyện ngắn
T.T.Kh đã sáng tác nên những bài thơ tình bất hủ vì chuyện ngang trái tình
duyên. Điều này thì đã quá rõ. Nhưng ta cần biết ai là người đã làm cho thi sĩ
đớn đau đến tột cùng khiến phải thốt ra những lời thơ thấm đẫm đầy nước mắt ấy?
Đây là một câu hỏi quan trọng.
Hai sắc hoa ti gôn là bài thơ hay nhất trong ba bài thơ và là bài thơ mà tác giả
viết ngay sau khi đọc được truyện ngắn Hoa ti gôn. Điều dễ nhận thấy đầu tiên
là bài thơ như "họa" lại truyện ngắn, từ hình thức cho đến nội dung.
Khởi đầu là cái tựa: Hoa ti gôn - Hai sắc hoa ti gôn.
Truyện ngắn mở đầu bằng hình ảnh một ông họa sĩ già ngày nào cũng tỉ mẩn bên những
cánh hoa: "Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố
Tràng Tiền, họa sư Lê cũng không quên mua một bó hoa ti gôn".
Chuyện tình thơ cũng bắt đầu từ những kỷ niệm êm đềm với loài hoa có cái tên
Tây ấy:
"Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương".
T.T.Kh và Thanh Châu đã lấy cùng một loài hoa để khơi dòng tâm sự. Thứ hoa dây
leo có những cành nhỏ nhắn dễ thương trổ ra vô số nụ, năm cánh chụm lại thành
"hình quả tim", trong một hai ngày sẽ nở bung ra. Thế là "quả
tim vỡ".
"Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng: " Hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi".
Hoa dáng như tim vỡ là một chi tiết quan trọng. Thật ra bây giờ khi loài hoa
này đã quá nổi tiếng thì nhìn nó, người ta có thể nghĩ đến hình dáng quả tim vỡ
làm nhiều mảnh nhưng vào thời điểm câu chuyện này chưa xảy ra, khó có ai nghĩ đến
điều này.
Quan sát kỹ nụ hoa ti gôn ta thấy rằng, thật khéo tưởng tượng thì mới nghĩ ra
được như thế. Thế mà câu chuyện của Thanh Châu và câu chuyện của T.T.Kh đều
xoay quanh cái chi tiết "quả tim vỡ" ấy. Không hiểu vì sao những nhân
vật trong thơ và trong truyện có cách nhìn giống nhau đến vậy?
T.T.Kh nói rằng đó chẳng qua chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên :
"Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa".
Trong truyện ngắn, cánh hoa ti gôn từ chỗ là nguồn cảm hứng bao la của chàng họa
sĩ trẻ khi gặp người con gái cho đến chỗ là thông điệp của bi kịch khi chàng nhận
phong thư báo tang viền đen có ép một dây hoa ti gôn nhỏ rơi ra.
Trong bài thơ, cánh hoa ti gôn từ chỗ là niềm vui, niềm mong đợi của người con
gái: “Tôi chờ người đến với yêu đương” cho đến chỗ kết thúc một mối tình: “Có
thầm nghĩ đến loài hoa vỡ/Tựa trái tim phai, tựa máu hồng”.
Bài thơ thứ nhất nối tiếp những điều mà Hai sắc hoa ti gôn chưa nói hết:
"Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên/Bỗng ai mang lại cánh hoa tim/Cho tôi ép nốt
dòng dư lệ/Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên".
Hoa ti gôn - chính thứ hoa "sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy,
một mùa tàn lại một mùa nở" như lời tả trong tiểu thuyết Gánh hàng hoa của
nhà văn Khái Hưng mà Thanh Châu lấy làm đề tựa cho truyện ngắn Hoa ti gôn mới
là đầu dây mối nhợ của mọi chuyện. Nếu không có hoa ti gôn, ta sẽ không bao giờ
có những bài thơ tuyệt tác của T.T.Kh, không bao giờ có được câu chuyện tình
văn chương kỳ lạ này.
Hãy chú ý trong bài thơ thứ hai, T.T.Kh không còn nhìn những cánh hoa ti gôn với
vẻ lãng mạn u buồn của nó nữa. Nàng có vẻ như giận người nhắc đến cánh hoa ti
gôn:
"Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên".
Lúc trước nàng bảo, ngồi buồn đọc báo Tiểu thuyết thứ bảy, bắt gặp truyện ngắn
Hoa ti gôn, thấy ai cũng có tâm trạng giống mình nên cảm xúc viết ra bài thơ gửi
đăng báo cho vơi bớt nỗi lòng, thế mà bây giờ lại có ý trách người viết truyện.
Phải chăng đấy không là giận hờn trách móc ?
Trách mà không có lời trách.
"Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ".
Dường như nàng đang đối thoại với người viết truyện qua bài thơ. Nhưng nàng đối
thoại một cách rất khéo, khiến không ai nghi ngờ điều gì. Nhờ tài hoa, nàng đã
làm được điều đó mà không ai nhận thấy trong gần cả thế kỷ qua. Đây là lời dặn
của nàng:
"Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
“Cố quên đi nhé câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ".
Nhưng thật không may. Bài thơ cuối
cùng đã làm nàng lộ tẩy. Nàng không thể giữ kín cuộc đối thoại:
"Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly
Càng khơi càng thấy lụy từng khi
Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy
Mà viết tình em được ích gì?"
Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy! Nàng đã quên cả giữ ý tứ, đi trách một
người mà nàng bảo là không quen biết. Cái bọc đã không giấu nổi cây kim. Ấy là
vì chuyện Bài thơ đan áo mà chúng tôi sẽ nói ở sau làm cho nàng bực bội. Đến
đây, chúng ta thấy được một điều quan trọng: Hóa ra tác giả truyện ngắn Hoa ti
gôn không phải là người dưng. Bởi có mối quan hệ gì thì mới đi trách người chứ!...
Ai là người yêu của T.T.Kh ?
Nói một chút về Bài thơ đan áo. Bài thơ này nhiều người không chịu thừa nhận là
của T.T.Kh. Quả thật sự xuất hiện của nó cũng tương đối bất thường.
Thứ nhất là nó không đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy mà lại đăng ở báo khác.
Thứ hai là về hình thức, nó cũng khác ba bài thơ kia. So sánh với ba bài kia,
Bài thơ đan áo có vẻ thô vụng hơn nhiều. Đặc biệt trong khi ba bài thơ của
T.T.Kh đều là thơ bảy chữ thì Bài thơ đan áo lại theo thể thơ lục bát.
Thật là vô lý khi T.T.Kh đang rất điêu luyện trong thể thơ bảy chữ lại nhảy qua
thơ lục bát để rồi lúng túng trong lối thơ này đến nỗi đôi chỗ vần không được
nhuyễn. Chính những vướng mắc trên đã khiến người ta nghi ngờ bài thơ này là của
người khác giả mạo T.T.Kh.
Thế nhưng T.T.Kh lại không hề lên tiếng cải chính mà ngược lại trong Bài thơ cuối
cùng nàng lại nhắc đến nó:
"Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem".
Ai là người đã viết Bài thơ đan áo? Điều không bình thường là Bài thơ đan áo
tác giả không viết cho người ấy mà viết cho một người chị nào đó:
"Chị ơi, nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương".
Chi tiết này lại khá khớp với Bài thơ cuối cùng T.T.Kh đã nhắc đến một người
nào đó ngoài người ấy:
"Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em".
Ba người ấy là ai? Phải chăng là
có mặt cả người chị trong Bài thơ đan áo?
Qua phân tích cuộc "đối thoại", đã thấy được phần nào mối quan hệ
"không phải người dưng" giữa họ. Tác giả truyện ngắn, tức nhà văn
Thanh Châu chính là nhân vật ai mà nàng đã trách "Trách ai mang cánh
"ti gôn" ấy/Mà viết tình em được ích gì" để có khẳng định Thanh
Châu chính là nhân vật ai trong các câu thơ. Nhưng trong thơ T.T.Kh, ngoài ai
ra còn có thêm nhân vật anh:
"Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng".
Vậy nhân vật ai này và nhân vật anh trong câu thơ trên là hai người hay một người?
Có thể có hai trường hợp: Ai là một người bạn của nàng, hoặc ai chính là người
yêu của nàng, tức ai chính là anh. Nếu xảy ra trường hợp đầu thì Thanh Châu chỉ
là người bạn của T.T.Kh, được biết đến chuyện tình duyên ngang trái của nàng
nên cảm hứng viết nên truyện Hoa ti gôn. Nếu xảy ra trường hợp sau thì Thanh
Châu chính là người yêu của T.T.Kh.
Chúng ta chú ý, trong ba bài thơ, chỉ có Bài thơ cuối cùng là nàng đối thoại trực
tiếp với người yêu mình: "Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?". Giả sử
đây là thời điểm nàng đang giận chàng , thì khổ thơ thứ năm: "Từ đây anh
hãy bán thơ anh/Còn để yên tôi với một mình". Ta thấy dường như có sự “
Tranh cãi “ một cách khá căng thẳng.
Liên hệ đến khổ thơ thứ ba có câu "Bài thơ đan áo nay rao bán/Cho khắp người
đời thóc mách xem" thì ta sẽ hiểu ngay là chuyện Bài thơ đan áo, chàng đã
lấy nó đem "rao bán" làm cho nàng bực tức.
"Rao bán" là từ mà nàng ví von cho hả tức chứ thực sự là chàng đã để
lọt bài thơ đó ra ngoài. Bài thơ này vì một lẽ gì đó mà nàng không muốn cho ai
đọc. Việc đăng báo bài thơ này có lẽ gây nên điều gì hệ trọng lắm nên nàng đã hết
sức tức giận: "Là giết đời nhau đấy biết không".
Hãy để ý thêm chút nữa. Sau khi nói xong chuyện Bài thơ đan áo, nàng liền quay
sang chuyện những cánh hoa ti gôn: "Những cánh hoa lòng, hừ đã ghét/Thì
đem mà đổi lấy hư vinh". Chúng ta thấy rất rõ: người gây ra chuyện Bài thơ
đan áo cũng chính là người nhắc đến những cánh hoa ti gôn. Trước thì nàng cố giấu
nhưng bây giờ vì đang tức giận nên nhân nói chuyện này nàng nói qua chuyện kia
một thể luôn.
Như vậy thì nhân vật ai, người liên quan đến những cánh hoa ti gôn (Trách ai
mang cánh ti gôn ấy) và nhân vật anh, người yêu của nàng (Anh hỡi tháng ngày xa
quá nhỉ) chính là một.
Như vậy mối quan hệ là đã rõ. Thanh Châu chính là người yêu của T.T.Kh. Điều
này cũng phù hợp với lời kể của nàng ở khổ thơ đầu trong Bài thơ thứ nhất rằng
người yêu nàng là một chàng văn nghệ sĩ: "Thuở trước hồn tôi phơi phới
quá/Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương/Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại/ Êm ái trao
tôi một vết thương".
Trở lại Bài thơ đan áo, bài thơ này có một số điểm khác biệt so với ba bài thơ
kia về thể loại, về giá trị nghệ thuật. Tuy nhiên, có một đặc điểm quan trọng
nhất thì nó lại không khác, đó là phong cách sáng tác. Bài thơ đan áo cũng được
viết bởi một ngôn ngữ dung dị rất "T.T.Kh": "Chị ơi nếu chị đã
yêu/Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương". Vậy thì bài thơ này cũng là của
T.T.Kh nhưng được viết trước ba bài thơ kia rất lâu và do hoàn cảnh sáng tác
thiếu vắng tính lãng mạn của tình yêu trai gái .
Ai có thể là T.T.Kh?
Quá trình lần theo dấu vết con người bí ẩn này, chúng ta đã đưa ra được một số
tiêu chí để xác định ai có thể là T.T.Kh. Thứ nhất, T.T.Kh phải là một người phụ
nữ. Thứ hai, T.T.Kh phải là người thân thiết với nhà văn Thanh Châu. Cụ thể
hơn, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu.
Trong số những người phụ nữ được giả định trước đây, chỉ có một "ứng
viên" duy nhất phù hợp với vị trí của T.T.Kh theo tiêu chí nói trên. Đó là
bà Trần Thị Vân Chung, người được tác giả Thế Nhật phát hiện ra và tiết lộ
trong cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? Đây là nhân vật đã gây ra nhiều tranh cãi
trên công luận vào năm 1994.
Xin nhắc lại một số thông tin về bà Trần Thị Vân Chung. Bà sinh năm 1919 tại
Thanh Hóa. Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, lớn lên lập gia đình với một
người đỗ cử nhân luật, có lúc làm quan tri huyện, về sau làm đến chức Tổng trưởng
Quốc phòng trong chế độ Sài Gòn.
Về văn chương, bà Vân Chung là người thường hay làm thơ, viết văn với bút danh
Vân Nương, Tam Nương... Bà tham gia nhóm thơ Quỳnh Dao - nhóm thơ của những người
phụ nữ đài các trưởng giả lúc trước ở miền Nam, thường làm thơ xướng họa với
nhau như một sinh hoạt tinh thần.
Nữ sĩ Mộng Tuyết cũng là một trong những chủ soái của nhóm thơ này.
Bà đã có một số thơ đăng trên các báo ở Sài Gòn trước năm 1975. Năm 1986, bà
cùng các con xuất cảnh sang Pháp. Bà vẫn tiếp tục làm thơ đăng trên các tạp chí
tiếng Việt ở nước ngoài.
Năm 1994, khi cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? ra đời, nêu đích danh tên tuổi bà
Vân Chung, thì chính bà Vân Chung đã công khai lên tiếng phủ nhận mình là
T.T.Kh. Thư của bà từ Pháp gửi về được đăng tải trên Thanh Niên và một số tờ
báo khác. Ngoài ra có một số độc giả cũng viết bài gửi đến báo, không tin bà
Vân Chung chính là T.T.Kh. Điều này đã làm nhiều người ngờ vực tính chân thực của
cuốn sách nói trên. Bởi vì cuốn sách được viết ra dựa trên sự tiết lộ vô tình của
một người khác là bà Thư Linh, người quen biết với bà Vân Chung sau năm 1975 chứ
tác giả không có thông tin trực tiếp.
Các bài báo đăng trên Báo Tuổi Trẻ chủ nhật ngày 2/10/1994 , Báo Sài Gòn Giải
Phóng vào ngày 9.10.1994 ,Báo Lao Động số ra ngày 13/10/1994 đề chung một ý kiến
ủng họ việc công bố "Nghi án văn học đã gần 60 năm quanh một chùm thơ nổi
tiếng của tác giả T.T.Kh. “ là cần thiết mà Thế Nhật với những tư liệu và chứng
cứ rõ ràng bật mí được câu chuyện tình lãng mạn bậc nhất trong văn học Việt Nam
này".
Xem xét lại tất cả các vấn đề, thật đáng ngạc nhiên thấy bà Vân Chung có một
nhân thân phù hợp với T.T.Kh đến kỳ lạ.
Trước hết, bà Vân Chung chính là người yêu của nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện
ngắn Hoa ti gôn. Đây là thông tin được chính nhà văn Thanh Châu xác nhận - một
điều trước nay chưa từng được tiết lộ bởi người trong cuộc. Đây là một điều tối
quan trọng, đáp ứng tiêu chí cần phải có của T.T.Kh (xin nhấn mạnh lại một lần
nữa, bất cứ nhân vật nào, muốn là "ứng viên" để vào vị trí T.T.Kh thì
người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu).
Nhà văn Thanh Châu cùng sinh trưởng ở thị xã Thanh Hóa như bà Vân Chung, gia
đình thuộc dòng dõi quan lại nhưng đến thời của ông thì gia cảnh sa sút. Ngược
lại, gia đình bà Vân Chung lúc đó làm kinh doanh buôn bán, kinh tế khá giả hơn
rất nhiều.
Thanh Châu là bạn của người anh ruột bà Vân Chung. Ông có dịp trò chuyện với cô
em của người bạn mình là bà Vân Chung khi đi trên chuyến tàu từ Hà Nội về Thanh
Hóa. Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã khởi đầu cho một cuộc tình đầy nước mắt về
sau.
Trở về Thanh Hóa, hai người tiếp tục qua lại với nhau và tình cảm ngày càng thắm
thiết. Gia đình hai bên cũng đều biết việc này nhưng cuộc tình duyên không đi đến
đoạn kết vì vấn đề môn đăng hộ đối.
Sau cú sốc này, Thanh Châu ra Hà Nội sống, Vân Chung ở lại quê nhà, một thời
gian sau thì đi lấy chồng. Chi tiết này phù hợp với câu thơ trong Bài thơ thứ
nhất:
"Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành".
Ra Hà Nội một thời gian, Thanh Châu nhận được tin tức từ gia đình nhắn ra cho
biết bà Vân Chung chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng. Câu thơ tiếp theo của
T.T.Kh viết đúng như hoàn cảnh của bà Vân Chung:
"Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều".
Mối tình giữa Thanh Châu và Vân Chung là một mối tình văn chương cao đẹp vì cả
hai người đều có tâm hồn văn nghệ sĩ. Truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu thể
hiện đầy chất lãng mạn và những bài thơ của Vân Chung viết sau này cũng thật
lãng mạn
Sau khi chia tay, hai người không có điều kiện gặp lại nhau nữa vì đến năm
1954, hai miền Nam Bắc chia đôi, Vân Chung đã cùng chồng vào Nam còn Thanh Châu
ở lại quê nhà. Mãi cho đến bốn mươi năm sau, khi miền Nam giải phóng, Thanh
Châu mới tìm vào Sài Gòn để thăm lại cố nhân.
Nhà văn Thanh Châu đã trực tiếp xác nhận chừng đó thông tin nhưng ông không đồng
ý khi đặt vấn đề rằng T.T.Kh chính là bà Trần Thị Vân Chung. Vì vậy,lại tiếp tục
so sánh đối chiếu.
Phù hợp giữa Trần Thị Vân Chung và T.T.Kh
Giả định Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh đã giải quyết được nhiều vướng mắc
trong nghi án. Chẳng hạn chi tiết "vườn Thanh" làm nhiều người tranh
cãi kịch liệt từ bao năm nay sẽ trở nên rất đơn giản khi đưa vào đây. Nếu chúng
ta chấp nhận Vân Chung là T.T.Kh thì vườn Thanh sẽ được hiểu đơn giản hơn: đó
là một cách nói hoa mỹ để chỉ thị xã Thanh Hóa, nơi mà hai người có nhiều kỷ niệm
trong thời gian quen biết nhau.
Về nhân thân bà Vân Chung để so sánh với T.T.Kh. Trong phần phân tích thơ
T.T.Kh, đưa ra nhận định, tác giả này phải là một người sinh trưởng trong một
gia đình khá giả, thuộc tầng lớp tân học. Điều này rất đúng với trường hợp của
bà Vân Chung. Và Thanh Châu cũng là một người tân học: trước học cao đẳng tiểu
học Vinh, sau ra Hà Nội học trường đạo.
Một điều quan trọng nữa là tuổi của "ứng viên". Theo xác nhận của
chính bà Vân Chung, thì bà sinh năm 1919, tính đến năm 1937 là bà đã 18 tuổi
tròn. Đó là tính theo tuổi Tây. Còn theo tuổi ta thì đã 19. Như vậy bà hoàn
toàn có thể lấy chồng hoặc chồng đi dạm hỏi vào trước năm 1937. Vậy thì đến
tháng 9/1937, nếu là T.T.Kh thì bà có thể viết trong Hai sắc hoa ti gôn:
"Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng/Trời ơi! Người ấy có buồn không".
Cũng cần nhắc lại là khi bà Vân Chung lấy chồng, ông Thanh Châu ở Hà Nội chứ
không ở quê nhà. Vì thế cho nên Vân Chung mới nghĩ rằng ông không biết việc bà
đi lấy chồng. Chi tiết này phù hợp với câu thơ "Nếu biết rằng...".
Đến đây ta tạm dừng việc so sánh đối chiếu lại một chút để đọc lại những trang
viết của ông Thanh Châu. Liên quan đến nghi án này, Thanh Châu đã viết cả thảy
hai tác phẩm. Một là truyện ngắn Hoa ti gôn mà từ đó có thơ của T.T.Kh "họa"
lại. Hai là bài tùy bút Những cánh hoa tim vào năm 1939 để kết lại câu chuyện.
Ta thấy gì trong những trang viết của Thanh Châu?
Khi xa Vân Chung ra Hà Nội, Thanh Châu đã hết sức sầu thương về mối tình ấy.
Trong bài tùy bút Những cánh hoa tim đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, ông viết:
"Vì tôi thấy tôi cảm thấu hết được những cái gì là tê tái trong tình ái.
Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng chua xót vì yêu". Đó chính là sự
chua xót về mối tình giữa ông và Vân Chung mà ngày nay ông đã xác nhận.
Vào thời gian này, tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh cũng vừa mới ra đời. Đó
là cuốn tiểu thuyết luận đề, có ý nghĩa đả phá những tập tục hôn nhân gia đình
phong kiến ngự trị ngàn năm trong xã hội Việt Nam. Thế nhưng Nhất Linh cũng
không sắp xếp nổi cho nhân vật Loan của mình trốn đi với Dũng mà phải để cho
hai người chia tay nhau, Loan lên xe hoa về nhà chồng, Dũng cất bước ra đi chốn
hải hồ. Ấy là vì lúc này hoàn cảnh xã hội chưa cho phép nhà văn thực hiện cuộc
cải cách quá mạnh mẽ như vậy, dù là trong tiểu thuyết. Bởi quan niệm cổ xưa còn
hết sức nặng nề. Như thế để thấy rằng, vào thời kỳ 1935 - 1937, những cô gái dù
tân học đến mấy cũng rất khó có thể thoát ra được ngoài vòng cương tỏa của chế
độ gia đình phong kiến. Tình cảnh của Thanh Châu và Vân Chung có lẽ cũng tương
tự như tình cảnh của Dũng và Loan.
Trong truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu, nhân vật chính là họa sư Lê đã rủ
Mai Hạnh trốn đi Nhật để cùng nhau xây cuộc đời mới. Đó là lòng khát khao của
những người đang yêu trước cảnh ngang trái tình duyên. Tuy nhiên, nhân vật Mai
Hạnh không đủ can đảm thực hiện vì "em không phải là loại đàn bà có thể vượt
hết được những khó khăn như anh tưởng", vì "em bỗng sợ, em sợ gia
đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em".
Những chi tiết, hình ảnh tiếp theo trong truyện ngắn mang đầy ẩn ý. Chẳng hạn
như chi tiết nhân vật Mai Hạnh chết đi, chi tiết dây hoa ti gôn trong thư báo
tang rơi ra, chi tiết họa sư Lê đặt bó hoa lên nấm mộ nàng... Những chi tiết ấy
mang đầy sự trách móc, hờn giận, đớn đau. Nửa phần muốn chôn chặt tình yêu xuống
đáy mồ sâu, nửa phần nhớ thương quay quắt cuồng dại mãi không thôi. Ta tin rằng
những nỗi niềm của nhân vật chính là nỗi niềm của tác giả. Những hoài niệm, u uất
của nhân vật về những "cánh hoa tim vỡ" là của Thanh Châu.
Năm 1939, sau khi câu chuyện T.T.Kh đã đi qua, Thanh Châu cho đăng bài tùy bút
Những cánh hoa tim trên Tiểu thuyết thứ bảy. Bài tùy bút này, một mặt ông phủ
nhận mọi sự dính líu đến T.T.Kh, một mặt ông giãi bày tâm sự của mình.
Chính ra Thanh Châu đã bị ám ảnh bởi những cánh hoa ti gôn khi ông viết trong
Những cánh hoa tim: "Một mùa thu cũ, tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong
tay và vò nát chúng nó đi trước một giàn hoa. Đó là thời kỳ tôi ốm dậy, buổi
chiều thường đi thơ thẩn trong sân". Ta nhớ rằng, tác phẩm Hoa ti gôn là
truyện ngắn nhưng tác phẩm Những cánh hoa tim là tùy bút. Mà tùy bút là nói
chuyện thật chứ không nói chuyện hư cấu. Thanh Châu đã vò nát những cánh hoa ti
gôn vì lẽ gì? Phải chăng vì nó đã từng là "chứng nhân" một thời của
tình yêu giữa ông và Vân Chung? Thanh Châu viết tiếp trong bài: "Bỗng
nhiên, nhìn những cánh hoa đỏ trong tay, tôi nghĩ đến một quả tim rớm
máu".
Như vậy chính ra Thanh Châu là người đầu tiên nhìn thấy bông hoa ti gôn có hình
quả tim vỡ chứ không phải nhân vật truyện ngắn họa sư Lê. Giữa Thanh Châu và
Vân Chung có thể đã có nhiều kỷ niệm về loài hoa "đỏ như màu máu thắm
phai" này. Cho nên Thanh Châu trong một đêm buồn bã nhớ nhung hoài niệm về
mối tình xưa, xót xa nghĩ lại những cánh hoa tàn úa thuở nào, đã không kìm nổi
lòng mình mà cầm bút viết nên truyện ngắn để giải tỏa cảm xúc, cũng là để gửi về
"vườn Thanh" cho người xưa.
Vào thời kỳ 1937, những cô gái có tâm hồn văn chương lãng mạn đều tìm đọc tạp
chí Tiểu thuyết thứ bảy. Vì thế truyện ngắn này đã đến tay Vân Chung ngay lập tức.
Đọc xong truyện ngắn, Vân Chung chắc chắn cũng đau lòng không kém. Trong tình cảnh
như thế, thì một người như Vân Chung hiển nhiên phải làm thơ để gửi lại cho
Thanh Châu. Và những bài thơ ấy, rất có thể là những bài Hai sắc hoa ti gôn,
Bài thơ thứ nhất, Bài thơ cuối cùng lắm chứ? Tại sao không?
Trở lại với riêng bà Vân Chung. Trước đây có người đưa ra một số "ứng
viên" nữ, nhưng không thấy nhắc đến lý lịch văn học của những người đó. Nếu
là T.T.Kh thì dứt khoát phải là một người cầm bút. Ít ra là phải như bà Vân
Chung, có thơ in thành tập, có sinh hoạt văn học nơi này nơi kia, có thơ đăng
báo...
Xin biện dẫn vài câu thơ của bà Vân Chung viết về mùa thu:
Nhớ những mùa thu trước
Êm cảnh thanh bình
Trăng ngà trải lụa thiên thanh
Khuôn hoa e ấp trên cành thắm tươi
Thế rồi
Bão táp mưa sa
Trăng tàn hoa tạ
Mông mênh sầu ngập biển đời
Trời thu lộng gió để người sầu thương
(Bài thơ cuối thu, 1960)
Hơi may se cả bầu trời
Hàng cây lá đã vàng phơi ít nhiều
Nhà ai một mái tịch liêu
Chìm trong làng vắng tiêu điều chiêm bao
(Vào thu - 1993)
Một điều đặc biệt là mười bài thơ của bà Vân Chung thì có đến năm bài bà nhắc đến
mùa thu . Dường như bà bị ám ảnh bởi mùa thu. Đây cũng là một điểm chung với
T.T.Kh.
Thơ của bà Vân Chung sau năm 1954 cho đến nay không phải là thơ hay. Hầu hết đều
bình thường. Chính vì vậy mà nhiều người cho rằng bà Vân Chung không thể là
T.T.Kh vì thơ bà không xứng tầm với thơ T.T.Kh. Lập luận như thế là không đúng.
Thật ra không có nhà thơ nào có thể làm thơ hay suốt đời. Nhiều nhà thơ nổi tiếng
nhưng về sau vẫn làm những câu thơ rất tầm thường.
Một bài thơ hay phải gắn liền với một hoàn cảnh đặc biệt. Không có hoàn cảnh đặc
biệt thì khó có thể có thơ hay. Chẳng hạn Hàn Mặc Tử sẽ không thể nào sáng tác
được bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ nếu người đẹp Hoàng Hoa không gửi vào cho chàng một
tấm hình chụp phong cảnh bến đò Vỹ Dạ lúc chàng đang tuyệt vọng chán chường
trên giường bệnh.
Nếu Hữu Loan không có nỗi đau về người vợ vắn số thì không thể nào có được bài
thơ Màu tím hoa sim để đời. Nếu Vân Chung là T.T.Kh thì cũng thế. Chỉ trong
hoàn cảnh tình duyên ngang trái lỡ làng với người yêu một cách đớn đau tột cùng
thì mới sáng tác được những câu thơ như viết bằng máu thịt ấy. Đó là những tác
phẩm đỉnh cao của một người làm thơ. Đó là tinh hoa tinh huyết. Còn như Vân
Chung sau này, sống một cuộc đời bình thường bên cạnh người chồng giàu sang của
mình, làm sao sáng tác được thơ hay, dù trước đó có là T.T.Kh đi chăng nữa. Đó
là chuyện bình thường và hợp lý.
Khi xưa, Hoài Thanh cũng đã từng nhắc trong Thi nhân Việt Nam: "Bốn năm đã
qua từ ngày tờ báo vô tình hé mở cho ta một cõi lòng. Ai biết "con người
vườn Thanh" bây giờ ra thế nào? Liệu rồi đây người có thể lẳng lặng ôm nỗi
buồn riêng cho đến khi về chín suối?".
Giải mã nghi án văn học T.T.Kh có thể khơi lại những vết thương cũ trong lòng
nhà thơ Vân Chung và nhà văn Thanh Châu nhưng nó là khát khao của người yêu
thơ, muốn biết T.T.Kh là ai, vì ai mà để lại cho đời những vần thơ xao xuyến
cõi lòng ấy . Hai người hãy xem đây như là một việc làm vì lòng mến yêu con người
đã để lại cho đời những vần thơ say đắm.
Sưu tầm