LÀNG
TÔI
Khiêm Cung
Tôi sanh ra tại làng
Bắc Nam. Hiện nay mồ mả ông bà tôi vẫn còn
tại đó .
Làng này thuộc lãnh
thổ Miên, còn gọi là làng Đồng Đức
Thượng, giáp ranh với làng Đồng Đức
Hạ bấy giờ thuộc Tỉnh Châu Đốc -
Việt Nam. Từ chợ Châu Đốc lên Nam Vang qua
ngả Bình Di, đi bằng đường thủy
được khoảng mười lăm kí lô mét, bạn
sẽ gặp một chỗ đất bồi thành cù lao
rất lớn ở giữa sông gọi là Cù lao Ba tại
làng Vĩnh Trường,
tiếp tục đi khoảng mười lăm kí lô
mét nữa lại gặp một cái cồn gọi là
Cồn Cát, rồi đến Cồn Bắc Nam.
Một con sông nhỏ hiền hòa chảy qua
Bắc Nam, trước khi đổ ra sông cái. Cửa sông
nhỏ này ngó ra Cồn Bắc Nam.
Dân trong làng thường phân biệt làng Bắc
Nam thành hai xóm: xóm trong gần nguồn sông, người Miên
ở; xóm ngoài là khu vực vàm sông, giáp mối giữa sông
nhỏ và sông cái, nơi định cư của
người Việt và người Hoa. Lúc bấy giờ
Việt - Miên - Lào là ba nước Đông Dương
thuộc Pháp. Người Việt và người Miên
sống với nhau rất hòa thuận.
Xóm trong có chùa của
các Sư Sãi vấn y vàng hoặc y nâu, có những hàng cây
thốt lốt từa tựa như cây dừa. Các Sư
Sãi tu theo phái Tiểu thừa, ăn mặn, đi chân
đất, ôm bình bát đi khất thực, tức là đi
quyên các Phật tử cúng dường thực phẩm. Các
Sư Sãi cũng đi luôn ra xóm ngoài để khất
thực. Theo sau Sư Sãi
thường có một hai chú tiểu làm thị giả, phục vụ cho Sư .
Theo tục lệ
của người Miên, các chú tiểu này vào chùa tu học
một thời gian, vừa học giáo lý vừa học
chữ, sau đó trở về sống một cuộc sống
bình thường với gia đình. Thanh niên nào chưa qua một
khóa tu học thì khó cưới vợ, vì chưa đạt
tiêu chuẩn đạo đức và học vấn.
Lúc nhỏ tôi
thường theo cha vào xóm trong đi coi người Miên
đua thuyền trong ngày Lễ Rước Nước và
Lễ Đưa Nước. Những chiếc thuyền
dài mà thon nhỏ, gọi là ghe ngo, đầu có chạm
đầu rồng, đuôi có chạm đuôi rồng.
Đầu thuyền có người đội
trưởng, đầu chít chiếc khăn màu, tay cầm
một cây gậy chỉ huy có buộc vải màu tua
tủa, đầu ngúc nga ngúc ngắc theo nhịp bơi
của các đồng đội. Đuôi thuyền có
người cầm lái. Giữa thuyền là hai hàng
người cầm dầm để bơi. Các thuyền
đua rẽ nước phóng nhanh trong tiếng reo hò cổ
võ của đám đông người ủng hộ hai bên
bờ.
Tôi cũng say sưa
xem vũ Là Khol. Trong điệu vũ này có một cặp
vũ công, một nam một nữ, tôi không rõ tại sao cha
tôi thường gọi họ là con trống, con mái. Y
phục của họ rất đặc biệt,
đội mũ tròn có chóp nhọn ở trên giống
như cái tháp, áo ngắn tay bó sát thân người, mặc
váy gọi là xà rong, kéo vạt phía trước vắt
ngược lên thắt lưng phía sau, trông rất kín
đáo. Con mái có đeo vòng tay và kiềng cẳng bằng
bạc. Thân thể của vũ công thật dịu dàng, tay
của vũ công thật dẻo theo tiếng nhạc
ngũ âm.
Trong dàn nhạc
ngũ âm có hai nhạc cụ chánh. Nhạc cụ thứ
nhứt là những cái dĩa tròn bằng kim loại,
nổi u lên ở giữa, đặt nối tiếp nhau
trên một khung tròn . Mỗi cái dĩa là một nốt
nhạc. Nhạc công ngồi ở giữa khung tròn, dùng hai
cái dùi gõ vào chỗ u của những cái dĩa, phát ra
những âm thanh “ bòn bon bón bon, bòn bon bón bon ...”. Nhạc
cụ thứ hai là những thanh tre kết lại thành
một mảng, treo hai đầu mảng thanh tre này lên hai
đầu một cái máng bằng sắt dài độ
một mét, có hình dáng một
chiếc xuồng, hai đầu cong lên . Nhạc công
thứ hai cũng dùng hai cái dùi gõ lên các thanh tre kêu “ tằng
tăng tắng tăng, tằng tăng tắng tăng ...”.
Xóm ngoài có sinh hoạt
theo tập tục của người Việt và
người Hoa, có công xi rượu của Chú Bánh
Lớn, có khu chợ nhỏ
ở vàm sông. Đi vào phía trong một đổi có khu
đình làng với cây đa tàng rất to mà bọng
ruột, có những hàng cây sao cao vút, với nhà việc,
nơi làm việc và hội họp của Ban Hương
chức Hội tề, có miễu thờ Quan Thánh Đế
Quân, ông Quan Bình và ông Châu Sương và miễu thờ ông
Oanh. Ông Oanh còn được gọi là Ông Thần Súng, nghe
nói là một quan đàng cựu trông coi đội
đại bác, lập được nhiều chiến công
hiển hách, khi chết được vua sắc phong
thần .
Theo truyện Tam
Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Quan Thánh
Đế Quân còn gọi là
Quan Công, tên thật là Quan Vân Trường , đã cùng
với Lưu Bị và Trương Phi kết nghĩa anh em
tại Vườn Đào. Quan Vân Trường là một
người trung dũng,
một kiện tướng, hết lòng phò tá Lưu
Bị. Khi sa cơ, không chịu đầu hàng Tôn Quyền,
nên bị chém đầu. Hồn phách không tan, về
hiển thánh tại núi Ngọc Toàn, có một người
mặt trắng là Quan Bình và một người mặt
đen râu rậm là Châu Sương đứng hầu hai
bên. Quan Bình là con nuôi và Châu Sương là tùy tướng
của Quan Công .
Tôi có nhiều kỷ
niệm với khu đình làng. Người ta đồn
rằng ở khu đình làng có ma. Chính hai người cô
ruột của tôi cũng nói khi trời nhá nhem tối đi
ngang qua đó hai cô nhắm mắt lại mà chạy, nghe có
tiếng chân rượt theo, chạy càng nhanh tiếng chân
rượt theo càng gấp, hai cô chạy về đến
nhà mặt mày tái mét .
Một hôm nọ, Ông
Bảy Can rủ thanh niên vô khu đình làng bắt ma. Cha tôi
hăng hái, tình nguyện đi đầu. Trời tối
đen. Từ bọng cây đa hiện ra một bóng ma
gầy gò, tóc xỏa khỏi lưng quần, tay chân quờ
quạng. Cha tôi nhanh như chớp phóng đến bóp
cổ con ma. Ông nghe tay mình âm ấm và nghe con ma kêu rên khe
khẻ: Buông tay ra! Tao là
Bảy Can đây!
Hóa ra Ông Bảy
Can lén trốn vào bọng cây
đa trước để giả ma hù đám thanh niên.
Những lúc trăng
thanh, có lễ hội hoặc có đám cúng đình, tôi cùng
với bạn bè chơi cút bắt hoặc chơi
chuyền cột bắt cột ở các hàng cây sao, vui
thật là vui ! Trong trò chơi này, bốn đứa trẻ
đứng dựa lưng vào bốn cây sao ở bốn
góc; hai đứa đứng tréo góc là một phe. Hai
đứa của phe này rời cây sao - gọi là cây cột
- của mình để chạy qua cây cột của
bạn. Phải chạy cho nhanh, bằng không thì phe kia
sẽ chạy đến chiếm
cột đang bỏ trống, phe mình thua.
Dân làng rất tin
tưởng thần quyền , nên thường cúng
kiếng để cầu nguyện người khuất
mặt khuất mày phò hộ cho gia đình tai qua nạn
khỏi, mua may bán đắt, nhứt bổn vạn
lợi.
Ngày rằm tháng Giêng
làm bè bằng nhiều thân cây chuối kết lại
để tống ôn, tức là đưa tà ma, bịnh
tật ra khỏi làng mình. Trên bè có con heo quay, có giấy
tiền vàng bạc, có khói hương nghi ngút. Chung quanh bè có
treo đủ loại cờ giấy, lớn có, nhỏ có,
đủ màu sắc. Ban Hội tề cúng vái xong thì thả
bè trôi theo dòng nước chảy ra sông cái. Nghe nói khi
chiếc bè vừa ra khỏi vàm sông, con heo quay biến
mất trong tay của một số người chờ
chực sẵn.
Ngày rằm tháng
Bảy, đạo Phật có lễ Vu Lan , dân làng Bắc
Nam cúng Thí Rế hay Thí thực Cô hồn. Sân trước
miễu Quan Thánh Đế Quân được trải đệm.
Trên đệm sắp có hàng ngũ các giỏ bánh kẹo,
mía, trái cây; các cỗ bồi bằng giấy màu, hình nón cao
hơn một mét, cỗ này đơm bánh qui, cỗ kia
đơm tiền cắc hoặc tiền giấy. Sau khi
Ban Hội tề cúng cô hồn xong, một hồi trống
vang lên. Hồi trống vừa dứt là dân làng
được quyền giựt đồ cúng, kể
cả các cỗ tiền. Một cảnh náo loạn
diễn ra, có kẻ trầy tay, có người sứt trán.
Nhưng ai cũng thấy vui mỗi năm có dịp làm cô
hồn sống! Một lần nọ, có một thanh niên nhảy
vào giựt cỗ trước khi hồi trống chấm
dứt, bị phạt cúng một con heo quay.
Hằng năm có
Lễ Nghinh Ông, tức là cung nghinh các vị thần linh
đang thờ tại các miễu trong khu đình làng. Cứ
bốn thanh niên khiêng một cái kiệu để cung nghinh
chư vị Châu Sương, Quan Bình, Ông Oanh, đang lên
đồng, miệng thở xì xịt, tay cầm kiếm
sắt cắt lưỡi lấy máu vẽ bùa , hoặc
chém vào lưng, hoặc dùng cây sắt nhọn xuyên thủng
hai bên má, máu chảy dầm dề. Một dịp
để dân làng cầu xin chư vị giúp cái nọ cái
kia.
Cũng theo lệ
hằng năm, làng cúng đình hay là cúng thần. Làng mời
một gánh hát bộ về hát
chầu để thần xem. Ông Cố của tôi ,
một bậc uyên thâm nho học và lão thông tuồng tích, là
Ông Hương Cả, cầm chầu, tức là cầm cái
dùi trống chầu. Một câu hát hay của đào kép,
được khen bằng một tiếng thùng, hay hơn
một chút là hai tiếng thùng, thùng, thật hay là ba
tiếng thùng, thùng, thùng . Hát sai tuồng tích hoặc hát
cương bị phạt heo quay để cúng tạ
lỗi với thần.
Tết đến,
trong sân đình có dựng cây tre niêu, trên đọt có treo
một lá phướng và một hai món gì nữa mà tôi không
nhớ rõ, nghe nói để trừ tà. Mẹ tôi gói bánh tét,
nấu trong một cái nồi thật lớn, đặt
trên một cái lò dã chiến, kê bằng ba cục gạch
ở sau hè, chụm củi nhánh cây khô, cả nhà
thường quây quần bên bếp lửa hồng, vừa
canh chừng chụm thêm củi, vừa chuyện trò,
cười vui như pháo nổ.
Mỗi nhà cắm mấy cây cọc tre cao khoảng
một mét rưỡi dọc theo hai bên bờ sông, trên
mỗi cọc có một thếp đèn dầu cá, ban đêm
thắp đỏ rực hai bên bờ và phản chiếu
lung linh xuống nước sông. Ai ai cũng mặc áo mới , đi lễ
đình, chùa, cúng tổ tiên, chúc nhau những điều
tốt đẹp nhứt trong năm mới. Trẻ em vui
vẻ nhận lì xì của người lớn. Pháo
tiểu, pháo đại nổ đì đùng. Trẻ con
như tôi đốt pháo kim, loại pháo nhỏ, chỉ
lớn hơn chân nhang một chút, tiếng nổ nghe tí
tách. Đặc biệt là đâu đâu cũng thấy
cờ bạc, chỗ này một sòng bài cào, nơi kia
một sòng bầu tôm cá cọp.
Hầu hết dân làng
làm nghề cá mấm. Tôm cá đầy sông . Đời
sống dễ dàng . Mỗi nhà thường bó thật
chặt một bó nhánh cây khô gọi là bó chà. Ngâm bó chà
dưới bờ sông cho cá chui vào. Sau khi bắt nồi
cơm lên bếp, người ta ra bờ sông kéo nhanh bó chà
lên bờ, dộng mạnh xuống đất, cá rớt ra
rất nhiều, thừa thãi cho một bữa cơm.
Miền Tây Nam
Việt Nam thuôc hạ lưu sông Cửu Long, từ tháng
bảy đến cuối tháng tám âm lịch, nước
sông từ từ dâng cao hơn mặt đường
từ một mét đến hai mét. Dân địa
phương gọi là nước ngập để phân biệt
với lũ lụt, vì lũ lụt nước dâng lên
đột ngột và ào ạt hơn. Sàn nhà thường
cất cao hơn mức nước ngập. Có nhiều nhà
bị ngập, phải lấy ván kê thêm.
Mùa nước
ngập, tôi thường theo chị tôi bơi xuồng ba lá
ra ngoài đồng để bắt ốc bươu.
Đồng ngập nước, ốc bươu nổi
lều bều. Chị em tôi để chiếc xuồng
nằm ngang chiều gió, mỗi người một cái
rổ cào ốc vô, chốc lát đầy xuồng. Lúc
đó tôi hay nhìn quanh nhìn quất, xem ở rặng cây xa xa
trên đồng nước bao la, có cái giàn để quan tài
người chết hay không. Mùa nước ngập,
nếu không có đất gò để chôn người
chết, người ta phải làm một cái giàn có cái mui
che lại, dùng để tạm quan tài người
chết, chờ khi nước rút hết mới chôn
xuống đất. Ghê quá !
Tôi thích nhứt là vào
khoảng tháng bảy ta, nước vừa lên cao hơn
mặt đường độ năm tấc, cá rô
đồng, cá trê, cá lóc nhởn nhơ lội trong
nước trong dưới sàn nhà . Tôi bỏ sợi dây câu
có móc mồi trùng qua kẻ ván lót sàn nhà, chờ con cá tới
đớp mồi, xốc xốc vào bụng rồi kéo ghì
ghì sợi nhợ câu, tôi giựt lên, một con cá rô
đồng no tròn, đả tay làm sao!
Cũng trong mùa nước ngập, cha tôi
thường bắt một cái cầu bằng một
tấm ván dài độ bốn mét cho tiện giặt
giũ và múc nước sạch để xài. Đêm đêm
mấy con vịt của lối xóm đến ngủ
ở đầu cầu, rồi đẻ trứng ở
đó. Sáng ra, nhìn xuống đáy nước ở đầu
cầu, thấy mấy cái trứng trắng phau, tôi thích thú
nhảy ùm xuống nước vớt trứng lên
để dành luộc dằm nước mấm trong
với ớt, một món ăn thanh đạm nhưng
rất phổ biến ở đồng quê.
Còn nữa, làm sao tôi
quên được vườn xoài của Ông Cố phía sau
nhà. Vỏ xoài chín cây có màu ửng hồng nơi phần
cuống, từ giữa trái xoài trở xuống vỏ còn
xanh. Xoài chín cây rất thơm, thơm hơn xoài còn sống
hái xuống đem giú. Đêm
đêm mấy con dơi quạ nghe mùi thơm tìm xoài chín cây
để ăn. Chúng vừa chạm đến trái xoài thì
xoài rụng. Tôi thường cùng các bạn thắp
đuốc đi lượm xoài. Đứa nọ
thổi tắt đuốc của đứa kia, rồi
tranh nhau quờ quạng trong đêm tối để tìm
trái xoài rụng.
Nhắc tới làng Bắc Nam, một
luồng kỷ niệm dồn dập đến trong
đầu tôi với những tình cảm chân thành, thiết
tha đối với nơi chôn nhau cắt rún, đối
với cái chất phác, hiền hòa của người
đồng hương ngày trước.
Mọi việc đã
đổi thay theo thời gian. Xóm ngoài làng Bắc Nam
gặp tai biến. Thằng Tây trưởng đồn
Bắc Nam bắt đầu lo sợ dân bản xứ âm mưu
lật đổ chánh quyền thực dân, nó nói:
“ Bới tóc Phật
Giáo ( Phật Giáo Hòa Hảo )
Mặc áo Việt
Minh,
Ở trần du kích ”
Nó bắt và tra khảo nhiều
người dân trong làng, một số người bị
nó bắn chết . Dân xóm ngoài dần dần bỏ làng ra
đi. Gia đình tôi tảng cư về quê ngoại ở
An Phú, ngang Cù Lao Ba. Đến năm 1954, Liên Bang Đông
Dương tan rả, Việt Miên không còn thuận thảo
như xưa. Người Việt không còn dám trở về
Bắc Nam vì sợ Miên cáp Duồn, tức là chặt
đầu người Việt.
Đã mấy
mươi năm xa cách, tôi không còn biết xóm cũ làng
xưa thay đổi ra sao, có lẻ đã trở thành
nơi hoang vu đầy lau sậy, đình miễu đã
bị san bằng, mồ mả ông bà tôi đã phẳng lì,
nắm xương tàn đã trở thành cát bụi. Còn
hồn phách chư vị thần linh hiển hách ngày nào bây
giờ còn phảng phất nơi đầu cây ngọn
cỏ hay đã siêu thăng thoát hóa ?
Nhưng dầu cho vật đổi sao
dời, làng Bắc Nam vẫn còn nguyên vẹn trong tim tôi.