Xuân Đinh Hợi 2007
Trang Chính Trở lại trang xuân

Năm Hợi Nói Chuyện Heo

(Đinh Hợi từ 17-02-2007 đến 06-02-2008)

 

 

(Trích tác phẩm Tử Vi và Địa Lý Thực Hành sẽ ra mắt năm 2007

của Hàn Lâm Nguyễn-Phú-Thứ)

 

                   Sau khi năm Bính Tuất chấm dứt, thì đến năm Đinh Hợi được bàn giao từ giờ giao thừa bắt đầu ngày thứ bảy, 17-02-2007 để cầm tinh đến 24 giờ ngày 06-02-2008. Năm Đinh Hợi này cũng thuc hành Thổ và mạng Ốc Thượng Thổ tức Đất Trên Nóc Nhà, năm này thuộc Âm, có can Đinh thuộc mạng Hỏa và có chi Hợi thuộc mạng Thủy. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành,  thì năm này "Chi khắc Can" tức Đất khắc Trời. Bởi vì :"Mạng Thủy = Hợi khắc mạng Hỏa = Đinh" (mạng Thủy tức Đất được khắc xuất, mạng Hỏa tức Trời bị khắc nhập) . Do vậy, năm này xem như tổng quát xấu, bởi vì được Đất khắc Trời giống như các năm : Tân Tỵ (2001), Quý Mùi  (2003) và Giáp Thân (2004) vừa qua, đã bị Chi khắc Can. Riêng năm Nhâm Ngọ (2002) đã bị Can khắc Chi. Được biết năm Hợi vừa qua là năm Ất Hợi thuộc hành Hỏa, nhằm ngày thứ ba, 31-01-1995 đến 18-02-1996.

                   Căn cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Đông xuất hiện được minh định quảng bá từ năm thứ 61 của đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt đầu năm 2637 trước Công Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 + 2007 = 4644, rồi đem chia cho 60 thì có kết quả Vận Niên Lục Giáp thứ 78 bắt đầu từ năm 1984 cho đến năm 2043. Do vậy, năm Đinh Hợi 2007 này là năm thứ 24 của Vận Niên Lục Giáp 78 và năm Hợi kế tiếp sẽ là năm Kỷ Hợi thuộc hành Mộc, nhằm ngày thứ ba tính từ 05-02-2019 đến 24-01-2020.

                   Năm Hợi tức Heo cũng là Trư, cho nên trong bàn dân thiên hạ cũng thường nhắc nhở luôn trong sinh hoạt xả hội hằng ngày, từ đó mới có những từ ngữ liên quan, xin trích dẫn như sau :

                   Hợi là con Heo = Lợn đứng hạng thứ 12 của 12 con vật trong Thập Nhị Địa Chi, vì ủn-ỉn nên đi sau chót.

Giờ Hợi = là giờ từ 21 giờ tối đến đúng 23 giờ khuya.

Tháng Hợi  = là tháng Mười của năm âm lịch.

Heo Nhà = là Heo nuôi có chuồng hay thả sau nhà.

Heo rừng =  là Heo hoang ở trong rừng.

Heo Nái = là Heo mẹ đẻ ra con và cho con bú.

Heo Nọc = là Heo đực không thiến để làm gây giống.

Heo Sữa = là Heo còn nhỏ chưa dứt sữa mẹ nó.

Heo Lang = là Heo da có màu đen có xen lẫn những đốm trắng.

Heo Cỏ = là Heo thường ăn cỏ, nhỏ con.

Heo Ú = là Heo mập có nhiều mỡ.

Heo Trắng = là Heo cạo lông ra thịt, da trắng tươi để bán.

Heo quay = là Heo sau khi cạo lông xong, thì được ướp gia vị để vào lò quay cả con.

Heo Nứa = là Heo bị mỡ vàng.

Trư Nhục = Thịt Heo...v.v

 

Ngoài ra, còn có những Ca Dao, Tục Ngữ và Thành Ngữ, xin trích dẫn như sau :

 

Nuôi Lợn thì phải vớt bèo,

Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng...v.v (ca dao)

 

Nuôi Heo chọn nái,

Mua gái chọn dòng.

Nuôi Heo lấy mỡ,

Nuôi đứa ở đỡ chân tay ...v.v (tục ngữ).

 

Cám treo Heo đói.

Mắt trắng như mắt Heo luc.

Heo lành chữa ra Heo què.

Heo nhà Heo chợ.

Mặt như thủ dỉ Lợn ... v.v (thành ngữ).

 

Nhân nói về Heo là con vật chót, xin trích dẫn truyền khẩu trong dân gian nói đến 12 tuổi thuộc Thập Nhị Địa Chi như sau:

 

       Tuổi Tý con Chuột trong nhà, tha gạo, tha nếp, tha dồn xuống hang.

       Tuổi Sửu con Trâu kềnh càng, cày chưa đúng buổi nó mang cày về.

       Tuổi Dần con Cọp dữ ghê, bắt người ăn thịt đem về non cao.

       Tuổi Mẹo con Mèo ngao, hay quấu, hay quào ăn vụng thành tinh.

       Tuổi Thìn con Rồng ở trên thiên đình, hô phong hoán vũ ỷ mình trên mây.

       Tuổi Tỵ con Rắn ở cỏ cây, nằm khoanh trong bọng không hay điều gì.

       Tuổi Ngọ con Ngựa ô đen xì, ỷ mình sức mạnh kể gì đường xa.

          Tuổi Mùi là con Dê chà, có sừng, có gạt râu ria um tùm.

       Tuổi Thân con Khỉ trong lùm, chuyền qua, chuyền lại té ùm xuống sông.

       Tuổi Dậu là con Gà vàng, có mồng, có tít gáy ò ó o.

       Tuổi Tuất là con Chó cò, nằm khoanh trong lò lỗ mũi lọ lem.

       Tuổi Hợi là con Heo hằm, ăn no lại nằm đợi đến bữa ăn.

                   Về tuổi Hợi được Tam Hạp là : Hợi, Mão(Mẹo) và Mùi. Bởi vì, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành thì tuổi : Hợi có hành Thủy, Mão(Mẹo) có hành Mộc và Mùi có hành Thổ, cho nên chúng ta phân tách từng cặp tuổi, chỉ thấy tuổi Hợi được tương sanh với tuổi Mão(Mẹo) như sau :

       cặp Hợi và Mão(Mẹo) có :

Hành Thủy (Hợi) sanh hành Mộc(Mão=Mẹo) cho nên được tương sanh. Bởi vì, hành Thủy bị sanh xuất và hành Mộc được sanh nhập.

Trong khi, hành Mộc(Mão) khắc hành Thổ (Mùi) cho nên  bị tương khắc. Bởi vì, hành Mộc được khắc xuất và Thổ bị khắc nhập.

                   Và hành Thổ(Mùi) khắc hành Thủy(Hợi) cho nên  bị tương khắc. Bởi  vì, hành  Thổ  được  khắc xuất  và hành Thủy bị khắc nhập.

                   Do vậy, chỉ có cặp tuổi Hợi và Mão(Mẹo) được  tương sanh mà thôi. Trái lại, tuổi Mùi bị tương khắc với tuổi Mão(Mẹo) và cả tuổi Hợi nữa, cho nên có thể nói khác đi : tuổi Mùi bị Nhị Khắc cả tuổi Mão(Mẹo) và tuổi Hợi về hành.

                   Tuy nhiên, tuổi Hợi thuộc nhóm tam hạp là : Hợi, Mão, Mùi. Bởi vì, ba tuổi Hợi, Mão, Mùi  có cùng Âm mạng và nếu kết hợp với 5 Can Âm là : Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý, thì chúng nó có cùng hành với nhau là :

 

       Hành Kim : Ất Mùi, Quý Mão, Tân Hợi.

       Hành Mộc : Quý Mùi, Tân Mão, Kỷ Hợi.

       Hành Thủy : Đinh Mùi, Ất Mão, Quý Hợi.

       Hành Hỏa : Đinh Mão, Ất Hợi, Kỷ Mùi.

       Hành Thổ : Tân Mùi, Kỷ Mão, Đinh Hợi.

 

                   Ngoài ra, tuổi Hợi được Nhị Hạp với tuổi Dần. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành thì tuổi: Hành Thủy (Hợi) sanh hành Mộc(Dần) cho nên được tương sanh. Bởi vì, hành Thủy bị sanh xuất và hành Mộc được sanh nhập.

Năm nay là năm Hợi tức con Heo là một trong những gia súc, có đời sống của nó luôn luôn cận kề với đời sống chúng ta, những cơm thừa cá cặn thường để cho Heo Gà .v.v. ăn, để rồi khi chúng nó lớn lên, thì bắt nó làm thịt ăn hay đem bán, ngõ hầu góp phần lợi ích cho gia đình.

                   Khi nói đến ích lợi con Gà, nào là: Gà không những cung cấp thịt cho những bữa ăn hằng ngày, với những món ăn hấp dẫn ở quê nhà, chớ không phải như những con Gà bày bán ở xứ người ăn không ra hồn, thua xa hương vị Gà của Việt-Nam, bởi vì Gà ở Việt-Nam thường nuôi được thả ra sau hè vườn tược ăn uống tự do, cho nên có được thịt thơm ngon tuyệt vời. Hơn nữa, Gà cũng là một gia súc để cúng kiến nữa, ví như cúng mùng ba Tết, với con Gà luộc, rồi xem chân gà để biết thời vận năm đó như thế nào?  Ngoài ra, bắt con Gà còn tơ để cúng lễ mở cửa mả hoặc bắt con Gà trống lớn để đến đền thờ thần linh như : Lăng Ông Bà Chiểu hay miếu Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc ..v.v.  để hai người cùng van vái và cam kết lời thề trước bàn thờ, rồi vặn cổ con Gà để xem như lời nói sự thật, nếu nói dối sẽ bị thần linh vặn cổ như con Gà vậy...v.v

                    Đặc biệt, con Gà còn đem lại những ích lợi khác nữa, ví như Gà mái thì đẻ trứng, nuôi con để gia tăng nguồn sanh lợi cho gia đình. Trong khi đó Gà trống có đủ năm đức tánh như sau : Đầu có mồng  không khác đi mão, giống như Ông quan văn; Chân có cựa nhọn bén như gươm dao, giống như Ông quan võ mang gươm kè kè bên mình; khi thấy Gà trống lạ khác đến, thì nhảy xông tới  đá nhau là Dũng; khi thấy có thức ăn thì kêu gọi đồng loại đến cùng ăn là Nhân và tới giờ hừng đông sáng thì Gáy rất đúng giờ, để nhắc nhở cho quý bà con đồng hương ở nông thôn chuẩn bị ra đồng làm rung là tín. Đó là, năm đức tánh Văn, Võ, Nhân, Dũng và Tín trời ban cho Gà trống.

                   Đối với Heo, thì sự ích lợi của nó có thể nói hơn hẳn Gà, bởi vì Heo cung cấp rất nhiều thịt hơn Gà, các phần thịt trong thân thể con Heo mỗi nơi có sự ngon lạ khác nhau, cho nên tạo cho những món ăn rất hấp khẫu không kém hơn Gà, ví như bộ đầu lồng gồm có : ruột, gan, bao tử ... hoặc cái đầu Heo thôi, cũng làm cho những Ông bợm nhậu sai rồi quắt cần câu rồi...v.v.

                   Hơn nữa, trong dân gian thường xem Heo là gia súc dơ bẩn nhứt, cho nên có người nào sống không sạch sẽ, không ngăn nắp hoặc tình tự quá độ hay không chánh danh, thì nói người đó sống dơ bẩn như Heo.

                   Khi viết đến đây, tôi nhớ lại truyện Tây Du Ký đã miêu tả Trư Bát Giới là một trong những nhân vật đi theo Đường Tam Tạng thỉnh kinh, cùng đi có Tề Thiên Đánh Thánh, Sa Tăng ...tánh tình các nhân vật như thế nào, chắc quý bà con đồng hương đã từng đọc truyện này đã rõ. Đó là, biểu lộ cái đức hạnh ở đời của chúng sanh.

                   Nhân đây, tôi xin  trích dẫn  Ngài Huyền Trang như sau: Ngài Huyền Trang tức Hiuan-Tsang (có người nói ngài họ Trần tên Huyền Trang), sanh năm 602 và chết 664 hưởng thọ 63 tuổi. Năm 13 tuổi ngài xuất gia học đạo. Năm 20 tuổi thọ giới cụ túc, lúc bấy giờ nước Tàu có loạn lạc, mãi đến năm 629 ngài 27 tuổi, thuộc đời nhà Đường (618-907)  niên hiệu Trinh Quáng năm thứ ba, Ngài mới sang Ấn Độ thỉnh kinh, phải qua 100 quốc gia thuộc các nước nhỏ của Ấn Độ, cho có tên Đường Tam Tạng. Việc đi này, rất nhiều cuộc nguy hiểm trên đường đi và nhờ phép Phật che chở, nên Ngài vượt qua các tai nạn và cuối cùng được các vua Tây Vực tiếp rước và giúp đỡ tận tình để Ngài tu học các ngôi đại tự cho thành tài, cuối cùng thỉnh các tạng kinh sách từ Ấn Độ mang về, được Vua Thái Tông tiếp rước nồng hậu. Sau đó, Ngài dịch kinh luận được trên 1.500 quyển từ Phạn ngữ sang Hán ngữ, riêng bộ Duy Thức Luận là đặc sắc nhứt và được người đời tôn Ngài là Giáo Tổ dịch giả của Pháp Tướng Tông. Hơn nữa, Ngài còn soạn xong bộ Tây Du Ký dâng lên vua Thái Tông, được vua ngự phê cùng các bộ kinh khác của Ngài dịch và khi Ngài tịch được vua Cao Tông cử hành quốc táng, cùng xây tháp tôn thờ Ngài. Do đó, có thể nói Ngài là một đại sa môn người Trung Hoa đầu tiên dịch kinh từ tiếng Phạn sang tiếng bản xứ. Nếu kể từ sau khi Đức Phật diệt độ, cho đến Ngài đi thỉnh kinh từ Ấn Độ về năm 645 là 1.189 năm (bởi vì : 544 + 645 = 1.189 năm) và thời gian ngài đi thỉnh kinh là 16 năm (bởi vì : 645 - 629 = 16 năm). (Sđd Tìm Hiểu Giáo Lý Phật Giáo trang 58 và 59 của Thượng Tọa Thích Như Điển).

 

                   Trước khi tạm kết thúc bài này, tôi xin trích dẫn thời gian 10 năm những năm con Heo vừa qua và sắp tới có Hành như thế nào? để cống hiến quý bà con đồng hương nhàn lãm hoặc xem mình có phải sanh đúng năm Hợi hay không như dưới đây  :

 

Tên Năm     Thời Gian                Hành Gì?

Tân Hợi       30-01-1911 đến 17-02-1912 Kim

Quý Hợi      16-02-1923 đến 04-02-1924 Thủy

Ất Hợi         04-02-1935 đến 23-01-1936 Hỏa

Đinh Hợi      22-01-1947 đến 09-02-1948 Thổ

Kỷ Hợi        08-02-1959 đến 27-01-1960 Mộc

 

Tân Hợi       27-01-1971 đến 14-02-1972 Kim

Quý Hợi      13-02-1983 đến 01-02-1984 Thủy

Ất Hợi         31-01-1995 đến 18-02-1996 Hỏa

Đinh Hợi      18-02-2007 đến 06-02-2008 Thổ

Kỷ Hợi        05-02-2019 đến 24-01-2020 Mộc

 

 

                  Nhân dịp bước sang năm Đinh Hợi kính chúc tất cả quý bà con đồng hương được Vạn Sự Như Ý và Thành Đạt  mọi nhà.

 

Hàn Lâm. Nguyễn-Phú-Thứ

 

Trang Chính Trở lại trang xuân