RƯỢT CÁ LEO
Miền Nam Việt Nam, một năm chỉ có hai mùa: mưa, nắng.
Khi mưa, như trút nước,mưa rồi tạnh, rồi lại mưa, kéo dài đến sáu tháng. Sáu
tháng còn lại, nắng chói chang nhưng dễ chịu vì có gió, đỡ oi bức hơn miền
Trung và miền Bắc.
Mưa ít, nước lên chậm, gọi là nhích, bò lên
bờ. Mưa nhiều, nước leo nhanh lên bờ. Nước nhảy bờ khi mưa già liên miên cùng với
nước từ thượng nguồn chảy xuống mạnh, nhận chìm đất cát, đồng ruộng dưới làn nước
phù sa.
Hàng trăm loại cá, tôm từ dòng nước Biển Hồ
xứ Chùa Tháp đẩy trôi xuống miền Châu Đốc... sinh sản. Khi nước tràn bờ kinh rạch
vào ruộng rẫy trũng thấp, đó là thời điểm lý tưởng hưởng tuần trăng mật của cá
leo.
Các cô cậu cá leo làm tình mùi mẫn, quần
nhau cho bằng thích,rượt đuổi nhau tung tóe nước lấp lánh dưới ánh trăng bàng bạc.
Sau này đến tuổi lớn khôn, Ngọc thắc mắc tự
hỏi :
- Tại
sao người ta lại đặt tên là cá leo mà không đặt tên khác ?
Mỗi cái tên của con người, con vật, thực vật
đều có nguyên nhân nguồn gốc của nó. Đặt tên cho con, cháu; cha mẹ, ông bà thường
gởi gắm hoài bão, ước vọng hay giao phó một trách vụ gì đó để con cháu có thể
thực hiện, hoàn thành. Cái tên nhiều khi ảnh hưởng, đi liền với cuộc đời, số phận
cho đến ngày lâm chung.
Được gọi tên là cá leo vì nó thích leo, chạy
trên nước cạn mỗi khi đi tìm sự sung sướng, hạnh phúc lứa đôi. Chúng không chịu
ở vùng nước sâu như các loài thủy tộc khác.
Hình dung từ leo cũng cho mọi người biết
khái niệm về đặc tính của loài cá này. Như cá bông, mình có bông, rằn ri; cá
linh, một loại cá mà người sa viên (người đánh bắt cá chuyên nghiệp) thường
làm miếu thờ Thần Cá và Thần Hoàng Bổn Cảnh Đất Đai
Nhơn Trạch ở trước cửa vào miệng rọ, miệng đáy, vó gạc, vó càng. Loài cá này
theo các sa viên tin tưởng, rất linh, muốn cho ai giàu to hay sạt nghiệp cũng
được. Cá linh cũng là loài cá trắng như cá leo nhưng rất nhỏ bé so với cá leo,
và nhiều vô số kể, thường dùng làm mắm hay ủ làm nước mắm. Thật đúng với câu:
Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá. Nghề đánh bắt cá còn gọi là nghề hạ bạc. Còn
đâm hà bá có nghĩa là làm nghề thủy sản, nơi hà bá ở dưới nước sâu. Giàu cũng
nhanh mà mạt cũng mau.
Cá leo là một loại cá chỉ ở vùng nước ngọt,
có nhiều ở tỉnh Châu Đốc, Kiến Phong, Kiến Tường nằm sát biên
giới Việt-Miên. Cá leo mình dẹp, dài, đầu to, miệng móm, môi trớt, không vẩy,
thịt cá ăn ngon; cá lớn có thể nặng đến ba, bốn kí lô. Cá leo cùng một họ hàng
với cá trèn, cá kết :
Cá lưỡi trâu, sầu ai méo miệng,
Cá trèn bầu nhiều chuyện trớt môi.
Câu phong dao trên đây đã mô tả rõ hai loài
cá này: cá lưỡi trâu với cái miệng méo và dẹp như lưỡi trâu, còn cá trèn bầu cũng
như cá leo, miệng trớt vớt, môi dưới (hàm dưới) dài hơn hàm trên.
Cá leo làm tình sôi
nổi và dữ dội nhất trong các loài cá mà người ta được biết. Cũng như mèo, một
loài vật khi làm tình thì phải kêu, gào, la hét, cào rớt ngói, làm hư mái lợp
lăn lộn rầm rầm. Đôi khi từ trên mái nhà cao rơi tủm xuống đất mà chúng vẫn
không buông ra, dính như sam.
Gia đình của nhiều cư dân ở ấp Bà Bài, chuẩn
bị rượt bắt cá leo vào giữa tháng năm đến giữa tháng sáu; nhưng tính kỹ lại chỉ
chừng mười ngày mà thôi. Khi nước nhảy bờ qua những kinh rạch chằng chịt, nước
tràn vào đồng ruộng, chỗ nào trũng thấp, nước tràn vào trước, cá leo cũng theo
vào để hưởng tuần trăng mật.
Rượt bắt cá leo bằng những cái nôm, thường
là những người khỏe mạnh và rất nhanh nhẹn, hai tay hai cái nôm.
Trời mưa lất phất, trên nền trời có trăng
non là thời điểm thuận lợi nhứt để rượt bắt cá leo. Người ta đứng yên một chỗ tại
vùng nước cạn nơi có nhiều cá leo di chuyển. Hai tay hai nôm chuẩn bị sẵn sàng
ra quân.
Cô cậu cá leo từ dưới kinh rạch phóng lên,
mơn trớn nhau tung tóe nước trắng xóa, chạy đến đâu người ta đều nhận biết đến
đó. Không phải một cặp mà hàng chục cặp rượt đuổi nhau thật hào hứng. Chỗ nào
nước hơi sâu chỉ thấy được đường dợn sóng của cá leo đang di chuyển; còn chỗ nước
cạn, nông, kỳ, lưng cá leo bày lên chạy ngờ ngờ trông đã con mắt. Nhiều khi cô
cậu mải mê rượt đuổi, quần nhau chạy rướn leo lên bờ, mắc cạn.
Thế là tới số, muốn trở lại nước chúng phải
mất đôi giây phút. Những tay thiện nghệ rượt bắt cá leo làm sao
để chúng chạy thoát được. Đó là cơ hội bằng
vàng của người săn bắt cá, cô cậu đành chịu số phận hẩm hiu, cuộc tình dang dở,
đành nằm gọn trong nôm, sau đó vào giỏ. Lụy vì tình là như vậy đó, vọng cổ có
câu xuống xề: một khi đã lậm với tình... chết xuống tuyền đài chưa tan.
Muốn bắt được cá leo, người ta chọn vùng nước
cạn và không rộng lắm, nếu rộng quá cá leo chạy tứ tung khó chận bắt được. Rượt
bắt cá leo đi từng nhóm hai, ba người là lý tưởng nhứt, mỗi người đứng một phía
cách nhau độ mười, mười lăm mét. Cá leo chạy rượt nhau đàng này rồi chúng đổi
hướng sang đàng khác. Gần ai nhứt thì người đó ra tay thật nhanh mới chụp nôm
được cô cậu. Có khi được cả hai cô cậu chung tình cho đến chết; đôi khi chỉ nôm
được một cô hay một cậu, cô cậu còn lại teo bu-gi chạy chết bỏ xuống kinh rạch.
Tội nghiệp, âm dương chia cắt, hai ngã chia ly. Người ta ra tay đúng lúc khi cô
cậu đang quằn quại, sướng tuyệt vời, ngã nghiêng, phơi bụng trắng toát. Cô cậu
phải thúc thủ không tài nào né tránh được. Thời gian mùi rệu này chỉ trong nhấp
nháy. Hạnh phúc chóng tàn, cái chết đến liền.
Mỗi loài cá có đặc tính riêng. Sự mơn trớn,
ve vuốt, làm tình của cá lia thia rất dịu dàng, êm ái. Con trống, con mái đâu mỏ
vào nhau, tỏ tình yêu thương. Cá trống giương xòe kỳ vi, khoe màu sắc, lắc mình
uốn cong bao quanh cá mái nằm bất động lim dim chỉ có đưa miệng lên mặt nước để
thở, nhả bọt. Đây là giây phút mê ly của loài thủy tộc này. Trái lại, cá leo được
mang tên leo nên leo thật sự vào nước cạn để lao vào cuộc tình sôi nổi và cũng
để chuốc họa vào thân.
Một cặp trứng cá leo, loại cá lớn để đầy một
dĩa khá lớn. Khi trứng nở thành con có đến hàng ngàn con lận. Trứng cá leo, dân
quê thường muối sương, nướng hoặc chiên, món ăn rất hấp dẫn. Trứng cá
leo còn được chiên hoặc nướng
tươi, nghĩa là không có muối để ăn với nước mắm tỏi ớt, có pha giấm hoặc vắt chanh. Nước
mắm ăn trứng cá leo hay cá leo nướng, chiên tươi phải là nước mắm pha
loãng. Trứng, thịt cá ngập trong nước mắm mới thấm, ăn ngon hơn. Ở nhà quê, có
nhiều bông súng, bông điên điển sống hoặc làm dưa chua chấm vào nước mắm dầm cá
chiên ăn thật bắt. Cá leo càng lớn càng ngon, thịt nhiều và dai. Phần thịt ngon
nhứt là từ cổ cúc đến hai phần ba thân cá, còn phía sau, đuôi dẹp lép ít thịt
hơn.
Cá leo chỉ chế biến quanh quẩn có các món
ăn: chiên, nướng, hấp, nấu canh chua, kho, và người ta còn làm khô, làm mắm nữa.
Giòng họ của cá leo có cá kết, cá trèn. Cá
kết lớn hơn cá trèn hình dáng giống như cá leo, cũng môi trớt, mình dẹp nhưng
trắng hồng, còn cá leo thì trắng xam xám ; cá kết nhỏ con hơn cá leo nhiều.
Cá kết
như là thục nữ ẻo lả, mảnh khảnh, nhỏ thó hay là một tiểu thơ khuê các ở thành
thị. Còn cá leo thì vạm vỡ, gân guốc như một thôn nữ khỏe mạnh, đầy sức sống. Thịt
cá kết ngon thơm hơn thịt cá leo, ngọt và mềm hơn. Cá kết cũng được làm các món
ăn như cá leo, và làm khô, mắm. Ở xứ Chùa Tháp, Biển Hồ là nơi sản sinh và tích
chứa cá gồm nhiều chủng loại khác nhau, cá sống quanh năm không phải chỉ có một
mùa nước lớn như ở Việt Nam.
Cá kết, người Miên làm khô kiểu đặc biệt, xỏ thành từng xâu, một chục con hay một
tá xếp lại thành hình cái quạt, phơi và xông khói để dành được lâu và ăn rất
ngon. Nhậu với khô cá kết nướng, chiên thật tuyệt cú mèo. Khô cá kết xông khói còn
làm gỏi sầu đâu nữa.
Có hai loại cá trèn: cá trèn và cá trèn bầu.
Cá trèn có loại lớn con, loại nhỏ con. Cá trèn nhỏ con, người ta thường làm mắm,
gọi là mắm cá trèn. Mắm cá trèn cao cấp, giá
cả mắc hơn mắm thái (mắm
cá lóc xắt, xé nhỏ trộn với đu đủ
bào).
Cá trèn nhỏ, dân quê
thường ăn bằng món kho mặn. Còn cá trèn
lớn hoặc cá trèn bầu thì cũng được chế biến làm thành nhiều món ăn như cá leo,
cá kết. Trong giòng họ nhà cá nầy, cá trèn bầu ngon nhứt mà chỗ ngon của cá
trèn bầu chính là cái bầu, cái nọng của nó, thịt nhiều, béo ngậy.
Ngoài món cá trê, cá
lóc, cá rô kho tộ, người ta còn có món cá trèn bầu, cá trèn lớn hoặc cá trèn nhỏ
kho tộ "rắc" thêm nhiều hành, tiêu lên trên mà ăn với cơm gạo nàng
hương chợ Đào, ngon hết ý.
Người dân quê ở ấp
Bà Bài có hàng chục cách đánh bắt cá.
Một cách bắt cá rất độc đáo :
Những vùng nước cạn, dòng rạch nhỏ cạn
hoặc những cái đìa lạn rộng, người ta đắp những cái tàu từ bờ đất bên này sang
bên kia để cá nhảy vào đó mà bắt.
Cái tàu là gì nhỉ ?
Hình dáng cái tàu, bề ngang chừng một mét
hay hơn một chút, chiều dài từ bên bờ này sang bên bờ kia, chận giữa vũng nước
hoặc chận chỗ nào tương đối cạn mà hai bên đều có nước để chận đường cá qua lại.
Người ta kéo lục bình, rau muống hoang, ngổ, nghễ, cỏ mục, cỏ tươi đang sống ở
nước đắp thành cái tàu. Trên mặt tàu đắp thêm một lớp bùn, đất vừa trét lòng
tàu vừa làm cho nặng để tàu có chân, không có lỗ hổng ở dưới nước. Hai bờ tàu
cao hơn lòng tàu chừng một gang tay, chạy suốt chiều dài.
Cái tàu vắt ngang vũng nước, chia ra hai
khu vực khác biệt. Tối đến, như thường lệ, cá di chuyển đi đó đây, tìm mồi hay
đi tìm đào, tán mái. Gặp vật cản, gây trở ngại, chúng tức giận nhảy từ bên này
qua, bên kia nhảy lại, có con thì rớt mắc
kẹt trên tàu, có con rớt lại xuống nước. Chúng tiếp tục nhảy, nhảy riết, lòng
tàu có đủ loại cá, cá lóc, cá bông nhiều nhứt vì chúng nhảy khỏe. Người ta thường
nằm ngủ gần chỗ đắp tàu để giữ tàu. Một là nếu để cá lâu trên tàu, chúng có thể
lại nhảy xuống nước, hai
là sợ người khác đến lượm bắt mất cá đi vì làm đắp
tàu rất cực, mất nhiều công sức. Thứ đến cá để lâu trên tàu chúng sẽ chết, bán
không có giá và cũng không rộng để dự trữ được
Dân nhậu thường rủ vài ba người đem nóp
theo ngủ, không quên mang theo vài lít đế cũng như rau, dưa, nước mắm... mà người
ta gọi là đồ tẩm liệm để ăn cá. Nhiều khi người ta còn đờn ca vọng cổ nữa để tận
hưởng thú ăn cá tại chỗ. Có những cái tàu gặp những nơi có nhiều cá, một cái
tàu dài chừng năm, bảy mét, một đêm có thể bắt được vài gánh cá tha hồ mà ăn, làm
khô, làm mắm. Một điều lưu ý là loài cá cũng rất khôn, đắp được cái tàu cũng rất
tốn công mệt sức,nhưng chỉ dùng được một đêm đầu, mấy đêm sau rất ít cá vì
chúng biết đó là nơi tử huyệt nên không nhảy nữa.
Những cách bắt cá khác như đâm cá bông bằng
mũi xà búp, chĩa sa di năm mũi có ngạnh; mũi chĩa thành bó bằng cây kèo dù để
đâm cá nhái (cá lìm kìm)... Muốn bắt cá được nhiều, người ta "làm
chà", đặt đáy, chào rào, lọp, lờ, lưới, giăng câu, xây rọ, vó gạc, đặt vó
càng... Ba cách: xây rọ, đặt đáy, vó gạc là bắt được nhiều cá nhứt, tính bằng tấn
chứ không tính bằng hàng chục, trăm kí lô như các loại cách bắt khác.
Cá leo ngoài cách rượt nôm nhưng bắt chẳng
được bao nhiêu, mỗi lần như vậy chỉ bắt được năm, ba con cá lớn. Cá leo cũng
cùng chung số phận như các loài thủy tộc khác qua hàng chục cách đánh bắt cá mà
người dân quê càng ngày càng có kinh nghiệm và phát huy sáng kiến độc đáo hơn.
Từ thập niên 60 trở về sau này, giống cá
leo ít dần và chúng ta hy vọng giống cá nầy không bị tiệt chủng.