DUY NGÃ ĐỘC TÔN
Khiêm Cung sưu tầm
Trong lễ Mộc Dục, nói nôm na là lễ
Tắm Phật, chúng ta thấy chùa đặt một tượng Phật Thích Ca sơ sanh, một tay chỉ
trời, một tay chỉ đất, đứng trong một cái chậu nước rắc đầy hoa. Phật tử xếp
thành hàng một, lần lượt tiến lên, vừa tụng kinh vừa múc nước tưới lên tượng Phật.
Ngài đã nói gì khi một tay chỉ trời, một tay chỉ đất ?
Theo Kinh A Hàm, khi đản sanh, Đức
Phật đã nói một bài kệ bốn câu như sau:
Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế gian
Sinh lão bệnh tử
Trên trời dưới đất
Chỉ ta tôn nhất
Tất cả thế gian
Sanh già bệnh chết
Có người hiểu rằng chữ “ngã” là
tôi, ta hay mình ám chỉ Đức Phật, chỉ có Đức Phật là bậc đáng được tôn
sùng nhất, vì Ngài đã thoát vòng luân hồi sanh tử, còn tất cả thế gian vẫn còn
bị sanh già bệnh chết khống chế. Khi nói duy ngã độc tôn không có nghĩa là người
quá tự phụ. Ngài muốn nói đến cái ngã ở một từng cấp siêu vượt hơn.
Giáo lý phân biệt bản ngã
hay vọng ngã với chơn ngã.
Phàm phu và ngoại đạo cho rằng ngã là chúa tể của cái thân, nó là thường trụ,
trường tồn, cho nên sinh ra mê chấp, yêu mến thân mình và cái gì thuộc về mình,
bênh vực cho ý tưởng của mình. Đó là ngã chấp. Thật ra đó là bản ngã hay vọng
ngã, thân nầy chỉ là ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) giả hợp. Có
duyên thì tụ, hết duyên thì tan, ở phía sau năm uẩn không tìm thấy có một thực
thể nào gọi là « tôi »,« ta » hay ngã trường tồn bất biến.
Theo Phật giáo thì không có gì trong thế
gian là tuyệt đối,mọi sự vật (pháp) đều giới hạn, tương đối và phụ thuộc lẫn
nhau. Đó là nguyên tắc của luật Duyên khởi hay Duyên sinh theo một công thức gồm
có 4 dòng :
Cái này có thì cái kia có,
Cái này sanh thì cái kia sanh,
Cái này không có thì cái kia không có,
Cái này diệt thì cái kia diệt.
Toàn thể sự sanh tồn và tiếp tục sanh tử hay chấm dứt sanh tử đều được
giải thích theo một chu trình gọi là Duyên khởi gồm 12 yếu tố :
- Vô minh
duyên (sanh ra) hành (những hoạt động do ý muốn và những tạo tác của nghiệp) ;
- Hành duyên
thức (sự hiểu biết, phân biệt đối với cảnh);
- Thức duyên danh sắc(những hiện tượng tâm lý và vật
lý);
- Danh sắc duyên lục nhập ( 5 giác quan và ý thức };
- Lục nhập duyên xúc (đụng chạm, tiếp xúc);
- Xúc duyên thọ (cảm giác);
- Thọ duyên ái (khao khát, ham muốn);
- Ái duyên thủ (bám víu, giữ lấy);
- Thủ duyên hữu (sinh ra và trở thành);
- Hữu duyên sinh (sự sống, sanh ra);
- Sinh duyên 12. Lão (già), tử (chết), ưu bi khổ não
(buồn lo đau đớn).
( Nhân quả chuyển
lưu)
12 nh ân duyên như là một chuõi dây xích, nếu một nhân duyên
không sanh thì những nhân duyên khác không sanh. Vô minh diệt thì hành diệt,
hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt…v.v. cho đến khi sanh,
lão, tử, ưu bi khổ não diệt (Đây là nhân quả hoàn diệt).
Vọng ngã cũng thường
thay đổi vì duyên theo sáu trần. Mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý đòi hỏi chúng ta phải cung phụng đầy đủ, sắc là thức ăn
của mắt, âm thanh là thức ăn của tai, mùi là thức ăn của mũi, vị là thức ăn của
lưỡi…Chạy đi tìm bóng sắc để thỏa mãn đôi mắt, tìm âm thanh trầm bổng để thỏa
mãn đôi tai, mùi thơm tho để thỏa mãn mũi, vị cay đắng hay ngọt ngào để thỏa
mãn lưỡi…Ý phân biệt thứ nầy đẹp thứ kia xấu, món nầy ngon, món kia dở. Phân biệt
rồi đi đến chọn lựa, ham muốn, chiếm hữu, không được như ý thì sanh ra phiền
não, khiến con người lanh quanh trong vòng sanh tử luân hồi.
Vua Trần Thái Tông là một vị vua chơn tu, đã đặt ra nghi thức Sám Hối Sáu
Căn, nói lên những điều sai trái mà sáu căn, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý gây
ra. Bài sám hối nầy rất thiết thực, xét lỗi đã qua của 6 căn để ngăn ngừa
lỗi sẽ tới, cái bản ngã của mỗi con người nhờ vậy bớt vọng động, rồi dần
dần tan biến.
Đức Phật Thích Ca qua các kinh Kim Cang, Lăng Nghiêm và nhiều kinh khác đã
phá chấp, dạy mọi người không chấp ngã, không chấp nhơn hay chúng sanh thọ giả.
Phật dạy vô ngã, vô ngã sở, ta không có thật, cái gì của ta cũng không có thật.
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, trong bài pháp « Vô Ngã Là Niết Bàn » có
nói niết bàn ở trước mặt, khi không còn phân biệt ta và người khác là đã đạt đến
niết bàn rồi.
« Niết bàn chính là từ bỏ ba độc tham, sân,
si do ngã chấp gây nên. Vô ngã là niết bàn. Giờ phút nào cởi bỏ được ba độc, giờ
phút đó là niết bàn. Cho nên chúng ta thấy niết bàn vừa là cái chung, vừa là
cái riêng. Cái chung là ai cũng tu được vào được. Cái riêng là ai tu người ấy đắc.
Đức Phật không bưng Niết bàn đến cho ta ngồi lên. Ngài chỉ dạy cho chúng ta con
đường tu chứng Niết bàn mà thôi. Ngài dạy : « Ai còn tham luyến (tức
còn ngã ái chấp đây là của tôi, ngã mạn chấp đây là tôi, ngã kiến chấp đây là tự
ngã của tôi), thời có dao động. Ai không tham luyến thời không dao động. Ai
không dao động thời được khinh an. Ai được khinh an thời không thiên chấp
(nati). Ai không thiên chấp thời không có đến và đi. Ai không có đến và đi thời
không có diệt và sanh. Ai không có diệt và sanh thời không có đời này đời sau,
không có giữa hai đời. Đây là sự đoạn tận khổ đau ».(Niết bàn-Tương Ưng Bộ
Kinh 4/65.1982) »
Khi hàng thanh văn đã đắc lý vô ngã thì tu lên Đại thừa, tu tập cái
ngã của Phật, Bồ Tát. Đó là đại ngã, chơn ngã mà trong bài kệ trên, Đức
Phật coi như độc tôn, đặc biệt thoát ra ngoài sanh, lão, bệnh, tử.
Chơn ngã còn gọi là chơn tâm và còn nhiều tên khác, tùy theo kinh : « …
Phật dạy trong Bồ Tát Giới gọi là Tâm Địa, vì hay phát sanh muôn việc thiện.
Kinh Bát Nhã gọi là Bồ Đề, vì lấy giác làm thể. Kinh Hoa Nghiêm gọi là Pháp Giới,
vì giao triệt và dung nhiếp. Kinh Kim Cang gọi là Như Lai, vì không từ đâu đến.
Kinh Bát Nhã gọi là Niết Bàn, vì là chỗ qui hướng của chư Thánh. Kinh Kim Quang
Minh gọi là Như Như, vì chơn thường bất biến. Kinh tịnh danh gọi là Pháp Thân,
vì là chỗ nương của báo thân và hóa thân. Luận khởi tín gọi là Chơn Như, vì chẳng
sanh chẳng diệt. Kinh Niết Bàn gọi là Phật Tánh, vì là bản thể của ba thân.
Kinh Viên Giác gọi là Tổng Trì, vì mọi công đức từ đó mà lưu xuất. Kinh Thắng
Mang gọi là Như Lai Tạng, vì ẩn phú va hàm nhiếp. Kinh Liễu Nghĩa gọi là Viên
Giác, vì hay chiếu phá mờ tối ».(Chơn Tâm Trực Thuyết-Thiền Sư Phổ Chiếu
soạn, Thiền Sư Thích Thanh Từ giảng)
Ai cũng có chơn ngã, tức là có phật tánh, nhưng từ trước đến nay, bị vô
minh, phiền não che khuất, cho nên không thấy được. Chơn ngã có đủ bốn đức thường,
lạc, ngã, tịnh. Tinh tấn tu hành sẽ được sáng suốt, giác ngộ hoàn toàn, chơn
ngã hay Phật tánh hiển lộ, tức là thành Phật. Cho nên Đức Phật có giảng trong
kinh Phạm Võng rằng :
-Các ngươi là Phật sẽ thành, còn ta là Phật đã thành.
Phật và chúng sanh chỉ cách nhau một bờ giác, nhưng muốn đến bờ giác đó
không phải dễ dàng lắm đâu, có mấy ai tu nhứt kiếp ngộ nhứt thời. Đức Phật
Thích Ca đã trãi qua nhiều kiếp tu hành hay chỉ mới tu và ngồi nhập định trong
49 ngày đêm dưới cội bồ đề rồi thành Phật ? Nhưng nếu ngại đường dài mà
không đi thì làm sao đến, chuông không đánh làm sao kêu (lộ bất hành bất đáo,
chung bất đả bất minh) ? Tu nhiều thì giác nhiều, tu ít thì giác ít. Dù
sao công phu tu hành cũng giúp chúng ta hiểu biết hơn, sáng suốt hơn.
Để tìm chơn ngã hay chơn tâm, Phật tánh, thầy tổ thường dạy tu theo
Giới, Định, Huệ.
Giới là những qui định để người tu hành nói chung phải tuân theo,
thường là những điều cấm kỵ, không được làm. Giới luật đặt ra là vì lợi ích cho
bản thân người tu hành cũng như cho những người khác, như một trong năm giới
cho người tu tại gia, qui y tam bảo là không được tà dâm để bảo tồn hạnh phúc
gia đình của chính người đã qui y và những đối tượng có liên quan. Giữ giới hạnh
còn giúp cho thân tâm được thanh tịnh.
Định là để tâm quán sát, chuyên chú vào một sự việc, không lăng xăng chạy theo
vọng niệm. Pháp môn tu thiền (tọa thiền) cũng như pháp môn tịnh độ (niệm danh
hiệu Phật nhất tâm bất loạn) đều là cách buộc tâm cho định.
Còn huệ, theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn, là cái đức dụng
sáng suốt, thông hiểu sự và lý, dứt điều lầm lạc và mê muội, có lòng quyết định,
diệt hết sở nghi. Có định mới có huệ.
Thầy tổ cũng có lời khuyên phải biết buông xả, không chấp trước. Không nhìn
ra ngoài, tránh chuyện thị phi, sanh tâm phân biệt, mà phải nhìn vào trong để
sám hối về những điều sai trái của mình và tu theo tam huệ :
·
Văn huệ : Tụng kinh và nghe kinh hoặc nghe lời
thầy bạn mà phát huệ ;
·
Tư huệ : nhờ quán chiếu mà phát huệ ;
·
Tu huệ : nhờ tu thiền định mà phát huệ.
Tóm lại, trên mặt tương đối, người ta phân biệt có hai cái ngã: một cái nên
chừa là bản ngã hay vọng ngã ; còn một cái là chơn ngã phải
nên phát huy, bằng con đường tu đạo, con đường đạt quả vị giác ngộ vô thượng.
Tài liệu tham khảo :
- Vô Ngã Là
Niết Bàn - Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
- Chơn Tâm
Trực Thuyết - Thiền Sư Phổ Chiếu soạn, Thiền Sư Thích Thanh Từ giảng
- Thông Điệp
Đức Phật Ra Đời - Thượng Tọa Thích Thông Phương
- Con Đường
Thoát Khổ - Ni Sư Thích Trí Hải
- Từ Điển Phật
Học - Đoàn Trung Còn