MIẾNG TRẦU
Khiêm Cung
Cũng như người
Việt Nam, người Đài Loan vẫn giữ tục lệ
ăn trầu. Dọc đường có những quán trầu,
lắp cửa kiếng, mang bảng hiệu. V́ cạnh
tranh mua bán, mấy cô bán trầu ở trong các quán thường
trang điểm xinh xắn, một số mặc hở
hang. Có quán ghi ở bên ngoài hàng chữ câu khách: “Tại đây
có gái đẹp”.
Tuy tiêu thụ trầu nhiều
như vậy, nhưng người Đài Loan chỉ coi đó
là một món ăn chơi, “ăn trầu nhả bă, hút thuốc
bỏ tàn”, đối với họ, lá trầu không mang một
ư nghĩa ǵ đặc biệt như người Việt Nam ta, coi trầu là đáng quư, mang một tính chất nghi lễ hoặc
xă giao:
Miếng trầu là đầu câu chuyện.
Ngày xưa khách đến
nhà, phải mời khách ăn trầu:
Con quạ nó đứng đầu cầu,
Nó kêu bớ má têm trầu khách ăn.
Đám giỗ luôn có một
dĩa trầu gồm có ba lá têm vôi màu đỏ hoặc màu
trắng, trên có cau tươi hoặc cau khô và mấy cục
thuốc xỉa.
Trầu và tiêu đều
là loại dây leo, lá có h́nh tích giống nhau, bầu ở phần
cuống và nhọn ở chót lá. Người ta ví trầu
như là nhà gia giáo, khác với tiêu là vật tầm thường.
Theo quan niệm xưa, xướng ca là vô loại.
Mẹ giận lắm, từ
bỏ đứa con đi theo gánh hát bội, c̣n gọi là hát
bộ, v́ diễn viên vừa hát vừa ra điệu bộ:
Trồng trầu trồng lộn với tiêu,
Con theo hát bội mẹ liều con hư.
Trầu là một món
lễ vật không thể thiếu trong đám cưới,
một miếng trầu héo, một chung rượu lạt
cũng đủ rồi.
Trầu
vàng ăn với cau dầy
Tao nghe má nói gả mầy cho tao.
Trầu màu
xanh là thông thường, có loại trầu màu vàng đẹp
hơn. Cau dầy là loại cau già, người ta phải
xắt nó ra, đem luộc cho bớt chát, rồi phơi khô.
Trước khi ăn với trầu, cau khô được
đem ngâm lại trong nước cho mềm. Con trai, con gái ở
thôn quê ngày xưa hay gọi nhau mầy tao cho thân mật, thậm
chí chồng cũng gọi vợ là mầy.
Người
con gái đă Tiếc sự biết nhau quá muộn, trách
người con trai đă không mang trầu đến xin cưới
sớm:
Năm
tiền một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày c̣n
xanh
Bây giờ em đă có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra.
.
Trầu cau đám
cưới phải lành lặn, tốt tươi
để chúc vợ chồng mới trọn đời
hạnh phúc, đặt trong một cái quả phủ
vải đỏ. Ở Nam bộ, ngày xưa trầu cau
đám cưới đặt trong một cái mâm trầu,
tức là một cái mâm thau có chân, đậy vải
đỏ, trên có một cái nắp làm bằng giấy
bồi, gọi là búp sen, cao như cái lồng màu đỏ,
gắn chữ song hỷ, búp sen màu hồng, cành và lá sen màu
xanh, trông thật đẹp mắt. Lễ giở
mâm trầu tại nhà đàng gái rất trịnh trọng. Mâm
trầu đặt ở giữa, trước bàn thờ
gia tiên, cô dâu chú rể ngồi đối diện ở hai
bên mâm trầu, trước mặt mỗi người là một
cái dĩa quả tử lớn. Người ta lấy vải
hay chiếu che chắn không cho người ngoài, chẳng có
phận sự, nh́n vào buổi lễ. Mâm trầu giở ra.
Cô dâu chú rể, mỗi người lấy trầu cau để
vào dĩa quả tử của ḿnh, giống như trong đám
cưới của người phương tây có nghi thức
cắt bánh cưới để chia ngọt sẻ bùi. Trầu
cau này để cúng gia tiên và mời bà con dùng lấy thảo.
Có người tin dị đoan cho rằng cô dâu hoặc chú
rể, người nào lấy được trầu cau
nhiều th́ cầm quyền người kia.
Sống xa quê
hương, nhưng thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay
ở những nước không có trầu cau thật, vẫn
muốn giữ truyền thống tốt đẹp của
ông cha, đă mua trầu cau giả, làm bằng rau câu, h́nh thức
và màu sắc rất giống trầu cau thật, để
làm lễ phẩm đám cưới.
Ngày xưa,
muốn tiến đến hôn nhân phải trải qua sáu lễ,
gọi là lục lễ, trong đó lễ cưới là lễ
cuối cùng.
Người
con trai phải dày công lắm mới cưới được
vợ. Nhiều người phải ở rể, sống
bên nhà vợ để làm đủ thứ tạp dịch.
Thiếu chi người “làm rể cố công mà không
đặng vợ”, bị bên vợ sau rốt chê, không gả
con cho. Trong đám cưới, chú rể phải lạy “nhứt
bộ nhứt bái”, giống như học tṛ lễ, bước
tới xá một cái, rồi bước lui, lạy xuống
một lạy, tỳ tay trên đầu gối đứng
lên... Vất vả ơi là vất vả !
Nhưng người
con trai đâu có khổ bằng người con gái trong chế
độ phong kiến.
Mới sanh
ra đă bị xem là “nữ sanh ngoại tộc”, người
con gái không phải là người trong họ, v́ người
đó sau nầy đi lấy chồng trở thành người
của nhà chồng, đương nhiên phải để
tang cho ông bà, cha mẹ chồng, c̣n cha mẹ ḿnh qua đời,
người phụ nữ phải xin phép gia đ́nh bên chồng
để về thọ tang cha mẹ ruột. Người
con gái “khuê môn bất xuất”, không được đi
ra khỏi nhà, cha mẹ sợ con gái học hành biết chữ
sẽ viết thư cho trai, cũng sợ con gái đi ra
ngoài dễ bị cám dỗ, có chữa hoang.
Khi lập
gia đ́nh, người phụ nữ phải theo khuôn mẫu
“xuất giá ṭng phu, phu tử ṭng tử”, có nghĩa là lấy
chồng phải theo chồng, chồng chết th́ theo con để
thay chồng nuôi dạy chúng nó. Chữ ṭng trong vế xuất
giá ṭng phu c̣n đồng nghĩa với phục tùng, tùy
thuộc chồng, chồng bảo ǵ phải nghe nấy, giống
như câu “phu xướng phụ tùy”.
Người
chồng có quyền hành quá rộng răi trong việc bỏ vợ.
Có từ “để vợ” nghĩa là bỏ vợ không
cần đưa ra ṭa, khác với thôi vợ theo phán quyết
của ṭa gọi là ly dị. Người chồng có quyền
làm tờ để để bỏ vợ, nếu người
vợ phạm một trong bảy lỗi gọi là “thất
xuất” sau đây: không có con (nói dơi), dâm đảng, không chịu
hầu nuôi cha mẹ chồng, lắm điều, trộm
cắp, ghen tuông, có bệnh tật ghê gớm (như phong cùi...). Nhưng có ba trường hợp sau đây, người chồng
không có quyền để vợ: người vợ đă để
tang của nhà chồng ba năm hoặc lúc hai người
lấy nhau th́ nghèo, bây giờ trở nên giàu có, hoặc khi lấy
nhau có người chủ hôn đứng gả, bây giờ
không c̣n thân thuộc nào để nương tựa.
Chế độ
đa thê cho quyền người đàn ông có nhiều vợ,
thương vợ nhỏ bỏ bê vợ lớn, người
vợ chỉ c̣n biết than thở:
Trồng
trầu th́ phải khai mương,
Làm trai hai vợ phải thương cho
đồng.
Chàng ơi phụ thiếp làm chi,
Thiếp là cơm nguội để khi đói ḷng.
Chế độ
Pháp thuộc cho phép đàn ông có hai người vợ chánh
thức, hôn thú bậc nhất và hôn thú bậc hai. Măi đến
thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, luật gia đ́nh được
sửa đổi, băi bỏ chế độ đa thê, chỉ
có một vợ một chồng. Những hôn thú bậc hai đă
lập trước vẫn c̣n tiếp tục có hiệu lực.
V́ vậy, ngày
xưa đám cưới linh đ́nh không có nghĩa hoàn toàn
do tôn trọng cô dâu mà cốt để đẹp mặt nở
mày hai họ, nhứt là đàng gái vinh hạnh được
mọi người thấy ḿnh biết nuôi dạy con cho đến
khi gả nó đi lấy chồng.
Đến đây
có lẽ chúng ta nên trở lại câu chuyện trầu cau và
đám cưới, nói một chút về các cô gái Việt lấy
chồng Đài Loan. Đây là một vài cảm xúc hoàn toàn riêng
tư của người viết, không một chút ư hướng
chánh trị.
Nghe nói đám
cưới không có trầu cau, mà chỉ có đô la. Hoặc
v́ ư hướng vọng ngoại, mong sống ở nước
ngoài sung sướng hoặc v́ muốn cứu giúp gia đ́nh
đang gặp hoàn cảnh khốn khó, các cô độ tuổi
trên dưới 20 ưng lấy những ông chồng tuổi
đáng cha ông ḿnh. Có một vài cô được may mắn,
hạnh phúc, nhưng đa số gặp nhiều bất hạnh,
bị cưới về cho một thằng chồng cùi đui,
sứt mẻ, hoặc cưới về để nô lệ
t́nh dục cho bao nhiêu gă đàn ông từ già đến trẻ
trong gia đ́nh, hoặc bị cưởng ép đi khách hoặc
làm lao động cực nhọc như trâu cày ngựa cỡi...
Đổi lại th́ gia đ́nh mỗi cô nhận được
ǵ ? Sau khi bị bọn môi giới chặn đầu chặn
đuôi, gia đ́nh mỗi cô chỉ c̣n nhận được
khoảng năm trăm Mỹ kim, thật là không tương
xứng. Một sự bóc lột tàn nhẫn vô cùng !
Nh́n chung từ
hồi nào đến giờ, người phụ nữ Việt
Nam hầu hết gặp nhiều bất công và bất hạnh.
Họ là những người đáng được vinh
danh về đức tính kiên nhẫn chịu đựng và
ḷng hy sinh cao cả cho gia đ́nh.
Sydney,
tháng 01/2008